🏏 Vô Ý Gây Thương Tích
Tội danh của H sẽ được thay đổi thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu P chết là do sự lơ là, tắc trách của bác sỹ bởi vì: Nếu P không chết mà được sự cứu giúp kịp thời của các bác sỹ thì khi đó tỉ lệ thương
Ý tưởng gây quỹ từ thiện là vô kể, vượt ra khỏi tầm vóc con người và sự cản trở của biên giới. Vì vậy, trước hết, làm từ thiện từ những điều nhỏ nhất quanh ta, và khi có điều kiện, đừng ngại ngần sẻ chia tình yêu thương rộng tràn thế giới!
Cụ thể, theo thông tư 20, sẹo gây ảnh hưởng tới thẩm mỹ là sẹo phải thuộc 1 trong 9 trường hợp: sẹo xơ cứng, dính, lồi, lõm sâu, biến đổi màu sắc da, số lượng nhiều, kích thước lớn. Trong khi đó 2 vết sẹo của ông Truyền là hai vết xước, không phải khâu, không thể cho ra vết sẹo sơ cứng, dính, lồi, lõi sâu cũng như biến đổi màu sắc da.
3.2 Các hành vi phạm tội, ngoại trừ hành vi vô ý, của Người Được Bảo Hiểm, Bên Mua Bảo Hiểm hoặc của Người Thụ Hưởng; hoặc 3.3 Do Người Được Bảo Hiểm tự ý sử dụng bất kỳ loại thuốc kích thích, ma túy, chất gây nghiện, chất độc
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm
z9bQ4n6. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự được thực hiện do lỗi cố ý có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tuy nhiên trên thực tế, hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn có thể do lỗi vô ý gây ra. Đây là trường hợp có mức độ ít nguy hiểm hơn tội giết người với lỗi cố ý. Do đó, pháp luật đặt ra quy định riêng đối với trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 1. Căn cứ pháp lý Điều 138 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự quy định Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau “Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm a Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. 3. Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.” 2. Dấu hiệu pháp lý tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Khách thể của tội phạm Hành vi phạm tội ở đây là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Tức là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe của con người đã bị xâm phạm trái phép. Do đó, khách thể của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, quyền được nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe của con người. Mặt khách quan của tội phạm Hành vi phạm tội thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành động do cẩu thả hoặc quá tự tin mà gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân. Người phạm tội phải có hành vi tác động đến thân thể của người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ như đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc Hành vi này về hình thức cũng giống hành vi của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn nên pháp luật quy định mức độ tổn thương cơ thể của nạn nhân trong tội này 31% cao hơn so với mức độ tổn thương cơ thể của nạn nhân trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây hậu quả cho sức khỏe người khác tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 11%. Nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn thương đến sức khoẻ ở mức tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên mới bị coi là phạm tội. Nếu mức độ thương tật từ 30% trở xuống thì không phạm tội, chỉ bị xử lý hành chính, giải quyết bồi thường dân sự. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Trong một số trường hợp, hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng do vi phạm các quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà được các điều luật cụ thể quy định thì không phạm tội theo Điều 138 mà truy tố theo các tội tương ứng. Ví dụ, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Điều 139. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả thương tật của cơ thể nạn nhân từ 31% trở lên xảy ra. Giữa hành vi của người phạm tội và hậu quả thương tật của nạn nhân là mối quan hệ nhân quả. Thương tật của nạn nhân phải xuất phát từ nguyên nhân là hành vi phạm tội của người phạm tội. Chủ thể của tội phạm Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện bởi bất kỳ người nào đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. Thứ nhất, tội Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện bởi bất kỳ cá nhân nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Thứ hai, Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều của Bộ luật Hình sự nhưng không có quy định tội phạm tại Điều 138. Như vậy người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm về tội vô ý gây thương tích và gây hậu quả cho sức khỏe người phạm tội. Theo khoản 1 Điều 12, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về mọi loại tội phạm. Như vậy người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan là yếu tố đặc biệt phân biệt giữa tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi vô ý. Theo Điều 11 Bộ luật hình sự, vô ý ở đây gồm vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin. Vô ý do cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay Như vậy vô ý do cẩu thả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trường hợp người phạm tội vì cẩu thả nên đã không nhìn thấy trước hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân mặc dù pháp luật yêu cầu họ phải thấy trước hậu quả đó. Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra. Từ đây, có thể hiểu vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do quá tự tin là trường hợp người phạm tội hoàn toàn thấy trước được hậu quả thương tích hay tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân nhưng do chủ quan, quá tự tin cho rằng hậu quả không xảy ra nên vẫn thực hiện hành vi đó, kết quả hậu quả đó vẫn xảy ra. 3. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 138 Bộ luật hình sự quy định 03 khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau - Khung hình phạt phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm áp dụng trong trường hợp người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. - Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm áp dụng trong trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây a Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%. b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. Trường hợp này người phạm tội chỉ gây thương tật hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 01 người nhưng mức độ thương tật lại rất cao trên 61%. Do đó, hình phạt đối với họ cũng nặng hơn. - Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm đối với trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm. Căn cứ quy định trên, cả 03 khung hình phạt của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đều thuộc nhóm tội phạm ít nghiêm trọng. 4. Vụ án thực tế xét xử về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Bản án số 86/2020/HSST ngày 12/11/2020 “V/v xét xử bị cáo Triệu Văn L về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” của Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh Tuyên Quang.[1] Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 08/3/2020, Triệu Văn L đi bộ lên khu vực đồi Đồng Đồi thuộc thôn 16, xã T, huyện Y để săn gà rừng. Khi đi L mang theo 01 khẩu súng kíp tự chế màu nâu dài 140cm đã nhồi sẵn đạn bi; 01 túi vải bên trong đựng thuốc súng và đạn bi mục đích để săn gà rừng. Cùng thời điểm này, ông Trần Đình Nở cùng thôn với L mang theo 01 khẩu súng kíp tự chế màu nâu đen dài 136,5cm và 01 con gà trống giống gà lai gà rừng làm mồi để đi lên đồi Đồng Đồi săn gà rừng Lvà ông N không hẹn nhau trước. Khi ông N đi đến khe đồi giáp ranh giữa đồi nhà ông Vui Tờ X với đồi nhà ông Bùi Đình C đều trú cùng thôn thì ông N đi vào bụi cỏ lau rậm rạp cách đường mòn lên đồi khoảng 20 mét, buộc gà trống vào cành cây sát mặt đất để cho gà gáy mồi gà rừng đến. Sau đó, ông N nấp vào bụi cây cách vị trí buộc gà khoảng 02 mét để quan sát. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Triệu Văn L đi săn đến đường mòn thì nghe thấy tiếng gà trống của ông N gáy. Tưởng nhầm là gà rừng, L liền lấy điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 của mình ra bật tiếng gà mái rồi nằm sát bờ đường chĩa súng vào khu vực bụi lau nơi có tiếng gà gáy và ông N đang nấp L không nhìn thấy ông N do vướng bụi cây che khuất. Quan sát một lúc thấy phần cổ con gà trống của ông N, L liền nổ súng làm các viên đạn bi từ khẩu súng bắn tỏa ra trúng nhiều chỗ trên người ông N. Bị bắn bất ngờ ông N kêu lên, lúc này L biết bắn trúng người khác nên đã chạy đến đưa ông N xuống đồi đi cấp cứu. Tại Kết luận giám định số 143/2020/TgT ngày 24/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông N do thương tích gây nên hiện tại là 76% Bảy mươi sáu phần trăm. Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định bị cáo Triệu Văn L đi săn gà với động cơ, mục đích săn bắt được gà rừng, bị cáo thấy trước được hậu quả của việc sử dụng súng tự chế đạn hoa cải để săn bắn là có thể gây hậu quả nguy hiểm cho người khác, nhưng do quá tự tin là không xảy ra hậu quả đó hoặc có thể khắc phục được nên bị cáo vẫn thực hiện. Như vậy trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý do quá tự tin. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên sau khi phát hiện hành vi phạm tội bị cáo không bỏ trốn mà chủ động sơ cứu, gọi người hỗ trợ cùng đưa nạn nhân đi cấp cứu khắc phục giảm bớt tác hại của tội phạm. Về tội danh Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 138 Bộ luật Hình sự, bị cáo Triệu Văn L phạm tội “Vô ý gây thương tích”. Về hình phạt Xử phạt bị cáo Triệu Văn L 06 sáu tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 12 mười hai tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 12/11/2020. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Luật Hoàng Anh [1] truy cập ngày 14/06/2021.
Bài bào chữa tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ Luật hình sự BLHS. Phần quan điểm pháp lý đối với vụ án như sau I. Nội dung điều tra vụ án Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17-9-2010, Trần Thị X là giáo viên Trường mầm non HL, X phụ trách cho 23 bé nam ăn trưa. Cháu Lê Quang V sinh ngày 19-12-2006 không ăn, X nhắc nhở nhiều lần, cháu V không nghe. X bế cháu V mở cửa đưa cháu V vào thang máy ở tầng một, bấm nút vận hành di chuyển xuống tầng trệt. X đi nhanh xuống tầng trệt, mở cửa thang máy thấy cháu V nằm trên sàn thang máy, máu chảy ra nhiều. Sẵn có một phụ huynh đến đón con em về, X nhờ chở X và cháu V đến bệnh viện cấp cứu. X bị truy tố và xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 BLHS. » Tư vấn về tội cố ý gây thương tích II. Quan điểm của người bào chữa về vụ án A. Nhận định về tội danh và khung hình phạt mà bị cáo Trần Thị X bị truy tố, xét xử Quá trình điều tra vụ án, quan điểm xử lý hành vi phạm tội của Trần Thị X thiếu nhất quán. Ban đầu Trần Thị X bị khởi tố điều tra về tội “hành hạ người khác” Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 435 ngày 03-11-2010 của Cơ quan CSĐT Công an quận TP. Sau đó lại thay đổi tội danh từ tội “hành hạ người khác” thành tội “cố ý gây thương tích” quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự số 05, quyết định khởi tố bị can số 52 ngày 20-01-2011. Có thể nói, cơ quan CSĐT Công an quận TP lúng túng, bị động trong việc xử lý vụ án. Thật vậy, việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can từ hành vi “hành hạ người khác” sang hành vi “cố ý gây thương tích” đều do VKSND quận TP yêu cầu, cơ quan CSĐT chỉ chấp hành thay vì đưa ra quan điểm của cơ quan CSĐT đối với vụ án. Theo tôi, cả hai tội danh mà VKSND quận TP “chỉ đạo” cơ quan CSĐT thực hiện đều khập khiễng, thiếu khách quan và không thuyết phục. Bởi vì – Đối với tội “hành hạ người khác” phải thể hiện hành vi “đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình…”. Tàn ác được hiểu là hành vi gây ra sự đau đớn về thể xác và tinh thần đối với nạn nhân dưới các hình thức như đánh đập, bỏ đói… có hoặc không kèm theo việc chửi mắng thậm tệ, việc đối xử tàn ác thông thường phải lặp đi lặp lại. – Đối với tội “Cố ý gây thương tích” được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể gây tổn thương như ép nạn nhân tự gây thương tích, xô đẩy làm cho nạn nhân ngã va vào vật cứng… Hành vi của X có chăng chỉ là “vô ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 108 BLHS mà thôi. Khái niệm vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là hành vi vi phạm các quy tắc thông thường trong cuộc sống về đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe vì quá tự tin hoặc vì cẩu thả đã làm người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe. B. Nhận định về tỷ lệ thương tật của cháu Lê Quang V Trong giai đoạn điều tra vụ án, cơ quan CSĐT Công an quận TP đã hai lần trưng cầu giám định thương tật của cháu V theo yêu cầu của đại diện giám hộ – Lần 1 Tỷ lệ thương tật toàn bộ 27% hai mươi bảy phần trăm. – Lần 2 Tỷ lệ thương tật do thương tích gây nên hiện tại là 41% bốn mươi mốt phần trăm. Tỷ lệ thương tật của nạn nhân ảnh hưởng tới việc định khung hình phạt trong việc truy tố, xét xử bị can, bị cáo. Quá ngỡ ngàng trước kết quả giám định chênh lệch giữa lần 1 với lần 2 kết quả giám định thương tật lần 2 tăng 14% so với kết quả giám định thương tật lần 1. Trong quá trình điều tra và trước khi xét xử, Trần Thị X đã đề nghị VKSND quận TP, rồi TAND quận TP tiến hành thủ tục trưng cầu giám định lại thương tật của cháu Lê Quang V. Tuy trước đó đã hai lần giám định nhưng đều do đại diện giám hộ bị hại yêu cầu. Yêu cầu vừa nêu là chính đáng, đề nghị Quý Tòa cho hoãn xử để trưng cầu giám định lại thương tật của cháu V. * Tính chất hành vi phạm tội Hành vi phạm tội của Trần Thị X do lỗi vô ý, cẩu thả và không lường trước được hậu quả xấu có thể xảy ra đối với cháu Lê Quang V. Thường thì cơ quan tiến hành tố tụng lập luận là bị can, bị cáo buộc phải biết hành vi sai trái và phải chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra. Đối với vụ án này, cũng cần xem xét tính đặc thù của nghề chăm sóc, nuôi dạy trẻ của Trần Thị X. X là giáo viên nhà trẻ chưa được đào tạo kỹ năng nuôi dạy trẻ một cách thành thạo, nên không lường trước “nghịch cảnh” do đứa trẻ gây ra do cháu Lê Quang V không chịu ăn. Việc đưa cháu V vào thang máy, X tưởng như vô hại chỉ nhằm mục đích để cháu V ngoan ngoãn tiếp tục ăn uống, không ngờ cháu V lại va chạm vào thang máy gây ra thương tích đáng tiếc! Hành vi phạm tội của Trần Thị X do nông nổi, mang tính nhất thời, không hề mong muốn thương tích xảy ra cho cháu V. * Thái độ khai báo của Trần Thị X – Tại bản tường trình ngày 29-9-2010 Bút lục số 293, Trần Thị X khai nhận “Trong lúc nóng giận, không kiềm chế được mình, tôi đã bế bé V vào thang máy rồi đóng cửa lại và nhấn nút cho thang máy chạy xuống tầng trệt. Rồi tôi chạy xuống tầng trệt mở cửa ra, lúc đó tôi thấy bé bị chảy máu ở đầu, tôi hoảng sợ đã bế bé ra kêu cứu và đưa bé đi cấp cứu. Tôi không ngờ đã xảy ra thương tích cho bé như vậy. Tôi chỉ muốn hù cho bé sợ để muốn bé tốt hơn, tôi nghĩ thang máy giống với thang máy bình thường như những thang máy khác nên tôi đã làm như vậy nhưng không ngờ gây thương tích cho bé như vậy…” – Tương tự, tại bản tự khai ngày 27-9-2010 Bút lục số 215, Trần Thị X trình bày “Tôi nghĩ thang máy rất an toàn, tôi chỉ muốn hù cho bé sợ để tôi có cách giúp bé tốt hơn nhưng không ngờ khi tôi chạy xuống tầng trệt mở cửa thang ra, tôi thấy bé tôi thật sự hoảng sợ và bế bé chạy đi cấp cứu. Tôi không ngờ những hành động kém suy nghĩ của tôi đã gây cho bé và nhà trường, những người thân những thiệt hại quá lớn, tôi thật sự hối hận về những hành động của mình. Tôi nói ra mong cho tâm hồn tôi được nhẹ nhàng và tinh thần tôi bình ổn một chút. Tôi xin các anh hãy hiểu. Tôi không dám cầu xin tha thứ. Tôi chỉ mong các anh hiểu là những hành động của tôi chỉ muốn giúp bé và giúp mẹ bé để mỗi sáng mẹ khỏi đi làm trễ mà thôi. Tôi xin chấp nhận những hình phạt mà pháp luật định cho tôi”… – Tại biên bản hỏi cung bị can ngày 17-2-2011 Bút lục số 302, Trần Thị X nhận trách nhiệm do tôi X có hành vi bế cháu Lê Quang V bỏ vào thang máy vận chuyển thức ăn rồi nhấn nút để thang máy vận hành gây thương tích nặng cho bé V nên Cơ quan CSĐT Công an quận TP khởi tố đối với tôi về tội “Cố ý gây thương tích”… vào khoảng 11 giờ ngày 17-9-2010, sau khi chuẩn bị bửa ăn cho các bé học lớp chồi xong, tôi và cô giáo Ng chia lớp chồi ra thành 2 nhóm… tôi phụ trách cho nhóm các bé Nam gồm 23 người ăn. Khi đó, tôi thấy bé Lê Quang V không tự giác cầm muỗng xúc cơm ăn nên tôi có nhắc nhở bé V nhiều lần nhưng cháu V vẫn không chịu xúc ăn. Tôi đến gần xúc cơm đút cho bé V ăn nhưng bé V nhả ra 2 lần. Tức giận bé V, tôi dùng hai tay xốc nách bé V lên đưa đến cửa thang máy vận chuyển thức ăn ở tầng 1 cách nơi bé V ăn khoảng 03 – 04m, bé V không khóc hay phản ứng gì cả. Đến trước cửa thang máy, tay trái của tôi bế bé V còn tay phải tôi đưa ra nắm tay cầm mở cửa thang máy ra, bé V vẫn không khóc. Vừa mở cửa thang máy ra, tôi dùng hai tay bế bé V vào đứng trong thang máy… lúc này bé V không khóc và thang máy không có đồ vật gì khác. Sau đó, tôi dùng tay phải đóng cửa thang máy lại, rồi dùng tay phải nhấn nút vận hành thang máy di chuyển xuống đất. Khi thang máy vận chuyển thì tôi quay đi xuống tầng trệt để đón bé V nên không nghe thấy trong thang máy có tiếng bé V khóc hay tiếng va đập gì không. Tôi chỉ đi bộ hơi nhanh chứ không chạy. Khi tôi đi xuống đất, cửa thang máy ở tầng trệt thì thang máy đã xuống đến trước, tôi liền dùng hai tay kéo mở cửa thang máy ra thì thấy cháu V khóc thét lớn, bé V đang nằm trên sàn thang máy, trên người bé V có máu chảy ra nhiều, tôi liền dùng hai tay bế bé V ra khỏi thang máy thì thấy đầu bé V bị tét da đầu, tôi không kịp quan sát mà tri hô kêu cứu rồi bế bé V ra cổng trường. Vừa lúc đó có một phụ huynh đi rước con đang chờ con ở cổng trường đã chở tôi bế bé V đến Bệnh viện Phú Thọ cấp cứu. … Thái độ khai báo của Trần Thị X là thật thà, trung thực, thành khẩn chứ không quanh co chối tội. Đây là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS. III. Vấn đề khắc phục hậu quả xảy ra Ngay sau khi xảy ra vụ án, mặc dù bản thân và gia đình Trần Thị X rất khó khăn, nhờ sự giúp đỡ của nhà trường và một số phụ huynh, Trần Thị X đã chuyển giao đồng cho phụ huynh cháu Lê Quang V để góp phần chi phí chữa trị cho cháu. Trước khi vụ án được đưa ra xét xử, nhà trường và gia đình của Trần Thị X đã chuyển giao cho ông Lê Anh H là cha của bé Lê Quang V số tiền đồng, nâng tổng số tiền mà gia đình của bé V đã nhận từ phía Trần Thị X lên đồng. Cùng ngày 10-7-2011, cha mẹ của bé V là ông Lê Anh H và bà Dư Thị T là giám hộ của bé V có làm đơn xin giảm án cho Trần Thị X và xác nhận về mặt dân sự đã thỏa thuận xong. Kính xin tòa giảm án cho cô Trần Thị X để cô sớm hòa nhập cộng đồng. VII. Đề nghị hướng xử lý Qua phân tích và nhận định trên, tôi đề nghị HĐXX – Trả hồ sơ để Viện kiểm sát xem xét chuyển tội danh từ “Cố ý gây thương tích” thành “vô ý gây thương tích”. – Chấp nhận đơn yêu cầu của Trần Thị X xin tái giám định thương tật của cháu Lê Quang V, vì tỷ lệ thương tật của bị hại ảnh hưởng tới khung hình phạt, từ đó ảnh hưởng mức hình phạt đối với Trần Thị X, một cô gái quê lần đầu phạm tội do lỗi vô ý. Trân trọng. theo dragon law » Tư vấn Tố tụng hình sự vụ án cố ý gây thương tích » Luật sư tranh tụng các vụ án hình sự Luật sư bào chữa tội cố ý gây thương tích
Quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng là quyền cơ bản của công dân. Cá nhân, tổ chức nào có hành vi gây thương tích dẫn đến thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người khác đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà pháp luật quy định khung hình phạt của mỗi hành vi phạm tội là khác nhau. Nhiều độc giả băn khoăn không biết theo quy định, hành vi Vô ý gây thương tích dẫn đến chết người bị đi tù bao nhiêu năm? Vô ý gây thương tích dẫn đến chết người có được hưởng án treo không? Khi nào cấu thành tội vô ý gây thương tích dẫn đến chết người? Bài viết sau đây của Luật sư X sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc về vấn đề này, mời quý bạn đọc cùng tham khảo nhé. Hi vọng bài viết sẽ đem lại nhiều thông tin hữu ích cho quý bạn đọc. Căn cứ pháp lý Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Hành vi vô ý làm chết người là một hành vi của một người làm cho người khác chết chấm dứt sự sống với lỗi vô ý. Căn cứ theo Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định hành vi vô ý phạm tội là phạm tội một trong các trường hợp sau Người phạm tội vô ý tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng có rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Người phạm tội vô ý không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù người đó phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả đó có thể xảy ra. Trong đó, tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước hậu quả hoặc có khả năng thấy trước hậu quả gây nguy hại cho xã hội phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của vụ án, độ tuổi, trình độ văn hóa, trình độ nhận thức,… Lưu ý Để xử phạt một cách công bằng và tránh những nhầm lẫn, cần phân biệt rõ hành vi vô ý làm chết người với hành vi giết người do vượt quá phòng vệ chính đáng. Khác với hành vi vô ý làm chết người, thì hành vi giết người do vượt quá phòng vệ chính đáng được thực hiện do lỗi cố ý của người phạm tội. Khi nào cấu thành tội vô ý gây thương tích dẫn đến chết người? Căn cứ quy định trên đây thì có thể xác định cấu thành tội phạm của Tội vô ý làm chết người cụ thể như sau 1. Về mặt khách quan của tội phạm Về hành vi Người phạm tội có hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp, các quy tắc an toàn trong quá trình làm việc. Trong đó Vô ý gây thương tích dẫn đến chết người Quy tắc nghề nghiệp ở đây có thể được hiểu là các quy định, các quy tắc nhất định đối với công việc cụ thể mà trong quá trình hành nghề người đó phải tuân theo để bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe cho mình và cho người khác. Quy tắc an toàn ở đây có thể được hiểu là các quy tắc bắt buộc người thực hiện công việc nhất định phải tuân theo nhằm bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe cho mình và cho người khác. Về mặt hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm Gây chết người. 2. Về mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi do lỗi vô ý, bao gồm lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do quá cẩu thả. Có thể hiểu như sau Vô ý vì quá tự tin Người phạm tội biết hành vi của mình là nguy hiểm có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng tin rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra. Vô ý vì quá cẩu thả Người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra và có thể ngăn ngừa được nhưng cuối cùng hậu quả đó vẫn xảy ra. 3. Mặt khách thể của tội phạm Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ; quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ. 4. Về mặt chủ thể của tội phạm Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ. Hình phạt đối với người phạm tội vô ý làm chết người Người nào vô ý làm chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vô ý làm chết người. Tùy vào trừng trường hợp cụ thể, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà người phạm tội vô ý làm chết người có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 10 năm. Vô ý gây thương tích dẫn đến chết người bị đi tù bao nhiêu năm? Về tội Vô ý làm chết người Điều 128 Bộ luật Hình sự quy định Đối với tội vô ý làm chết người “Điều 128. Tội vô ý làm chết người Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.” Đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Về tội Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính như sau Điều 129 Bộ luật Hình sự quy định “Điều 129. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” Như vậy nếu bị truy cứu và bị tuyên án với tội danh Vô ý làm chết người thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu là tội danh Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Đồng thời có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Vô ý gây thương tích dẫn đến chết người có được hưởng án treo không? Khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Như vậy, khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo. Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội vô ý làm chết người như sau Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Như vậy, người phạm tội này có thể bị phạt tù từ 01 đến 10 năm. Trường hợp họ bị phạt tù không quá 03 năm thì có thể được Tòa án xem xét cho hưởng án treo. Mời bạn xem thêm Thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất Chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất Quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu bị hạn chế khi nào? Thông tin liên hệ Trên đây là bài viết Luật sư X tư vấn về “Vô ý gây thương tích dẫn đến chết người“. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả. Đội ngũ luật sư của Công ty Luật sư X luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc liên quan đến dịch vụ soạn thảo đơn xin tạm ngừng kinh doanh của bạn. Nếu có những vấn đề nào chưa rõ cần được tư vấn thêm quý độc giả hãy liên hệ ngay tới hotline để được các chuyên gia pháp lý của Luật sư X tư vấn trực tiếp. FB Tiktok luatsux Youtube Câu hỏi thường gặp Tội vô ý gây thương tích dẫn đến chết người có mức hình phạt cao nhất là bao nhiêu năm?Căn cứ Điều 128 Bộ luật hình sự 2015 quy định như sauTội vô ý làm chết ngườiNgười nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 vậy, đối với Tội vô ý làm chết người pháp luật quy định mức hình phạt áp dụng cao nhất là 10 năm tù. Người dưới 16 tuổi đánh người khác đến mức chết có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?Theo quy định, người dưới 16 tuổi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi phạm tội cố ý gây thương tích rất nghiêm trong hoặc đặc biệt nghiêm hợp với những phân tích ở trên người đánh người khác và gây ra cái chết cho người đó sẽ có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm đây là khung hình phạt cho tội rất nghiêm trọng.Theo đó, người dưới 16 tuổi đánh người khác đến mức chết thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người dưới 16 tuổi đánh người khác đến mức chết có nhiều tình tiết giảm nhẹ có được miễn trách nhiệm hình sự không?Theo quy định, người dưới 16 tuổi đánh người khác đến mức chết dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì vẫn không được miễn trách nhiệm hình sự.
vô ý gây thương tích