🥎 Biện Pháp Giáo Dục Lứa Tuổi Thiếu Niên

Những bài viết hay nhất về biện pháp giáo dục lứa tuổi thiếu niên. 3. Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS. Nội dung tóm tắt: Nội dung về Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS – Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên, giúp chúng ta có cách đối xử Cây non được chăm sóc tận tình của người trồng thì cây sẽ nhanh lớn và cho ra những quả ngọt. Giáo dục mầm non nói chung và giáo dục trẻ lứa tuổi mẫu giáo 4-5 tuổi nói riêng thì mục tiêu đang hướng tới là sự phát triển toàn diện cho trẻ về: Đức - Trí - Thể - Mỹ. ứng đầy đủ cho hoạt động giáo dục. - Do thiếu văn bản pháp quy, thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ từ trên xuống. 19 CHƯƠNG 3 CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TẠI CÁC TRUNG TÂM GDTX 3.1. NGUYÊN TẮC XÁC LẬP BIỆN PHÁP 3.2. CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GDPL CHO Tổ chức Đội trở thành một tổ chức rất cần thiết và quan trọng cho thiếu nhi. Sinh thời Bác Hồ đã nói “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Ngày nay giáo dục và đào tạo đang được Đảng và Nhà nước quan tâm và xem Lá số tử vi DƯƠNG NAM sinh năm CANH NGỌ (LỘ BÀN THỔ) giờ DẦN ngày 9 tháng 1 Âm Lịch. Cung Mệnh an tại Tí có sao TỬ VI đơn thủ. Cung Thân an tại Thìn có sao LIÊM TRINH, THIÊN PHỦ. -Biết được nguyên nhân và biện pháp phòng chống bệnh còi xương ở lứa tuổi thiếu niên, giải thích được các hiện tượng trong thực tế.-Xây dựng sản phẩm tuyên truyền về phòng chống còi xương cho lứa tuổi thiếu niên. II.Nội dung và hình thức tổ chức. 1.Nội dung: Thậm chí, có bạn cịn đưa chân lý sống: "Nếu người thân của thần tượng ngã xuống sơng, tơi cứu thần tượng của trước", bạn tuyên bố: "Nếu may mắn gặp thần tượng người u cầu tơi làm việc phạm pháp tơi làm" II THỰC TRẠNG TÂM LÝ THẦN TƯỢNG Ở HỌC SINH THPT Tổ 2. 2 Quan hệ giao tiếp của thiếu niên với bạn cùng tuổi. 3. Biện pháp giáo dục tình bạn tốt đẹp cho lứa tuổi thiếu niên. III. Phần tiểu kết 20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8840 | Lượt tải: 27 Biện pháp giáo dục lứa tuổi thiếu niên admin 15/04/2022 Giới thiệuTin tức- Sự kiệnChỉ đạo điều hànhTuyên truyền PB pháp luậtChiến lược, QH, KHThủ tục hành chính AXdv. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ LỨA TUỔI TIỂU HỌC I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI TIỂU HỌC Tâm lí học lứa tuổi bao gồm nhiều lĩnh vực nghiên cứu cụ thể với tư cách là các phân ngành của Tâm lí học phát triển – Tâm lí học về đời sống thai nhi trong bụng mẹ. – Tâm lí học tuổi hài nhi. – Tâm lí học tuổi mầm non. – Tâm lí học học sinh tiểu học. – Tâm lí học tuổi thiếu niên. – Tâm lí học người trưởng thành. - Tâm lí học người già. Tâm lí học lứa tuổi tiểu học là một ngành Tâm lí học nghiên cứu những đặc điểm tâm lí, các quy luật, các điều kiện, động lực phát triển tâm lí ở lứa tuổi tiểu học, những biến đổi của các quá trình tâm lí, các phẩm chất tâm lí trong sự hình thành, phát triển nhân cách trẻ em tuổi tiểu học. Tâm lí học lứa tuổi tiểu học chỉ ra các đặc điểm tâm lí của con người được hình thành và phát triển trong từng giai đoạn lứa tuổi và trong suốt cuộc đời, những quy luật hình thành và biểu hiện tâm lí trẻ em ở giai đoạn phát triển tâm lí tiểu học, chỉ ra các điều kiện, động lực của sự phát triển tâm lí ở lứa tuổi này. Tâm lí học lứa tuổi tiểu học cung cấp cơ sở tâm lí lứa tuổi cho việc xây dựng các nguyên tắc, phương pháp, biện pháp dạy học và giáo dục phù hợp đặc điểm và quy luật tâm lí lứa tuổi tiểu học, tổ chức hợp lí quá trình sư phạm nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học và giáo dục ở Tiểu học. Tâm lí học lứa tuổi tiểu học không những cung cấp cơ sở tâm lí cho giáo viên tiểu học trong hoạt động sư phạm của mình mà còn giúp giáo viên tiểu học, các nhà giáo dục ở bậc học này có phương pháp đối xử khéo léo sư phạm với giáo viên, học sinh và tự rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân để làm tốt vai trò người giáo viên trong sự nghiệp trồng người. Các em học ở trường tiểu học, hay còn gọi là tuổi Nhi đồng, lứa tuổi đầu tuổi học. Đến trường thực hiện hoạt động học tập là bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ ở lứa tuổi này. Giờ đây các em đã trở thành một học sinh thực sự, học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất giúp các em tích lũy kiến thức. Khi đến trường, các em bước vào những mối quan hệ mới và phức tạp hơn quan hệ với thầy Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu1 học cô giáo, với bạn bè. Trong môi trường hoạt động mới sẽ tạo ra cho các em một thế giới nội tâm phong phú.  Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh nhỏ. Thời kì này ở trẻ phát triển mạnh về nhận thức, tình cảm – ý chí – ý thức – nhân cách. II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TIỂU HỌC 1. Đặc điểm về mặt cơ thể - Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển thời kỳ cốt hoá nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,…Vì thế mà trong các hoạt động vui chơi của các em cha mẹ và thầy cô sau đây xin gọi chung là các nhà giáo dục cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn. - Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,…Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ. - Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,…Dựa vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em. 2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống Hoạt động của học sinh tiểu học - Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như + Hoạt động vui chơi Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi vận động. + Hoạt động lao động Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,…Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,… + Hoạt động xã hội Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,… Những thay đổi kèm theo Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu2 học - Trong gia đình các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,…các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ. - Trong nhà trường do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt. - Ngoài xã hội các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình. Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình. Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia đình, quan hệ xã hội và đặc biệt là trong học tập. 3. Đặc điểm của quá trình nhận thức Tri giác Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng – Tri giác có chủ định trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,… Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác. Chú ý Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,…Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,…Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định. Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu3 học tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ. Trí nhớ Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ – lôgic Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em… Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức. Tư duy Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học. Tưởng tượng Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,…. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện. Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu4 học Ngôn ngữ Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,….đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,…Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng. Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 – 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ,tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,…Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học. 4. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học Tính cách Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn…Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ. Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình. Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu5 học Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy. Xúc cảm – Tình cảm Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,…Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư… Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều. Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,…khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ. Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,… III. CÁC ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TIỂU HỌC ĐẶC TRƯNG 1. Các em luôn có sự mặc cảm Tự bẩm sinh, các em đã mang mặc cảm Edipe le complexe d’Edipe . Thầần tho ại Hy-l ạp k ể rằầng Edipe, do cu ộc đ ời oan nghiệt đưa đẩy, đã ngộ sát cha mình là Laios để lên ngôi vua và c ưới luôn m ẹ là Jocaste làm hoàng h ậu... Các nhà Tầm lý học mượn điển tch này để diêễn tả hiện t ượng tầm lý b ẩm sinh ph ổ biêến n ơi l ứa tu ổi thiêếu nhi. Các em luôn tm sự gầần gũi, yêu th ương, chiêầu chu ộng c ủa ng ười l ớn khác phái bé gái gầần bôế mà xa m ẹ, còn bé trai l ại gầần mẹ xa bôế. Đầy không phải là một tội lôễi ghê g ớm đáng lên án và nghiêm ph ạt nh ư cách nghĩ thi ển c ận c ủa m ột sôế người chủ trương đạo đức quá khằết khe cổ hủ. Cầần phải biêết khéo hướng dầễn để giúp các em t ừ t ừ nhận ra s ự cầần thiêết ph ải có đ ủ các tnh cách giáo d ục qua c ả bôế lầễn mẹ, anh và chị trong gia đình, cả thầầy lầễn cô ở tr ường, ở l ớp. Sau này, khi b ước vào tu ổi d ậy thì, các em seễ dầần dầần chuyển hóa sang thêế quần bình vêầ phái tnh. Nêếu người lớn quá khằếc nghiệt hoặc lơi l ỏng thiêếu quan tầm, có th ể seễ gầy ra n ơi các em nh ững ầến t ượng l ệch l ạc, di hại suôết đời các em vêầ mặt nhần cách tầm lý và ứng xử. Ng ược lại, cầần bằếc m ột nh ịp cầầu hêết s ức têế nh ị đ ể g ặp g ỡ chính tầm hôần bé bỏng non nớt của các em, biêết m ở chuy ện h ỏi han các em bằầng ngôn ng ữ và cung cách c ủa chính các em. Khi đó, các em mới dêễ bộc lộ một cách hôần nhiên nh ững tầm s ự, nh ững "bí m ật" có khi rầết ngô nghê c ủa các em, mà không hêầ e dè, giầếu giêếm, sợ người lớn la rầầy, kêết t ội hoặc chêế giêễu. Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu6 học Ở điểm này, các em cầần có người yêu thương, chằm sóc, ần cầần t ận t ụy và tnh têế nh ạy c ảm, nằếm bằết cho đ ược m ọi biểu hiện tch cực lầễn têu cực nơi các em. 2. Các em tin tưởng người lớn tuyệt đối Các em đã dần dần không còn muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác. Vì vậy, nếu các em nhận ra nơi các người lớn như cô chú, thầy cô giáo, anh chị... một sự bảo bọc chở che, nhất là sự quan tâm, cảm thông thật sự, các em sẽ dần dần quấn quít, tin cậy đến mức tuyệt đối. Hãy tránh đừng bao giờ đùa chơi với các em bằng cách xí gạt để các em mắc lừa cho vui. Cũng đừng bao giờ tạo cho các em cảm tưởng bị người lớn áp đặt, ăn hiếp, lấn lướt, sai bảo vặt và khống chế các em bằng luật lệ mà chính người lớn chưa chắc đã tuân thủ đàng hoàng. Do vậy, thông qua những hoạt động về giáo dục, làm việc, sinh hoạt vui chơi, người lớn cần biết tạo ra cơ hội để gần gũi các em, xóa bỏ mọi ngăn cách về tuổi tác và tâm lý, hòa mình trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ, biết cách gợi ý tổ chức cùng chơi, cùng làm với các em, từ đó mới có dịp để giúp đỡ, dạy dỗ các em một cách đầy đủ và kịp thời. Bên cạnh đó, cũng cần kích thích cho các em luôn háo hức chịu làm quen thêm với nhiều bạn trai bạn gái mới đồng trang lứa ở trường lớp và khu xóm. Ở điểm này, người sống với các em phải là một quản trò đa năng, biết biến báo, lôi cuốn, trang bị nhiều kỹ năng thành thạo, thu hút được đám đông các em, đồng thời lại có vốn liếng kinh nghiệm về tâm lý để có thể tiếp cận mà lắng nghe và đối thoại với từng em. 3. Các em ôm ấm nhiều giấc mơ Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều huyền hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian được kể trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự thêu dệt những mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ. Sau này, lớn hơn một chút, tính thần thoại chuyển dần sang khía cạnh thần tượng hóa một cách đơn giản. Khi các em được tiếp xúc thân tình với một người lớn nào đó có nhân cách cao thượng, các em sẽ nhanh chóng hình thành các ước mơ sẽ có được nhân cách ấy ví dụ "Lớn lên em sẽ làm cô giáo như cô..."; "Mai mốt con sẽ đi tu như cha..."; "Em sẽ là một Ronaldo của Việt Nam..." . Do đó, nếu người lớn biết khéo nương theo trí tưởng tượng và những mơ mộng hồn nhiên trong sáng của các em, có thể hướng dẫn các em dần dần gạn lọc đi những nét viễn vông huyền hoặc để chuyển những giá trị tốt đẹp hiện thực nơi nhân cách các em. Bước đầu thấu hiểu được những nhu cầu khát vọng ngây thơ của các em rồi, vẫn chưa đủ, bởi tính khí các em luôn bị đột biến, thay đổi hoặc bị tổn thương. Do vậy, ngoài việc hòa mình cùng chơi, cùng trò chuyện với các em, người lớn còn cần khéo léo tạo sức thu hút lâu dài bền bỉ, bằng cách lồng các hoạt động tập thể vào các trò chơi học và làm mà là chơi, chơi mà lại là học và làm một cách hữu ích . Đồng thời, cũng đừng quên tiếp xúc riêng từng em, giúp các em tập nỗ lực nho nhỏ để vươn lên trong từng khát vọng, từng ước mơ hồn nhiên của chính mình, mỗi ngày một chút theo phương pháp giáo dục tiệm tiến. Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu7 học Ở điểm này, người sống với các em phải là một người bạn trẻ trung, tâm huyết, đáng tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt vui nhộn cũng như tâm linh sâu lắng của các em. 4. Các em rất đa cảm, dễ xức động Tâm hồn các em còn hết sức trong sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới tinh. Ngay cả trường hợp một số em phải chịu những di chứng do sự đổ vỡ trong gia đình, thì chắc chắn tâm hồn các em vẫn luôn luôn đa cảm, rất dễ bị xúc động. Do đó, bất cứ hành động thô bạo nào đối với chính bản thân các em, đối với các em khác, đối với súc vật và đối với thiên nhiên đều gây tổn thương nơi các em, để lại trong tâm trí các em vết sẹo không bao giờ phai nhạt. Cần tránh cho các em phải đối mặt với những nghịch cảnh và bất hạnh, những thực tế quá phũ phàng, những hình ảnh dã man bạo lực trên sách báo, truyền hình, những biến cố quá gay cấn ngoài đường phố, trong gia đình, nơi trường học. Riêng với các câu truyện kể, cần nhớ rằng một nội dung quá bi lụy thương tâm có thể gợi ra nơi các em lòng trắc ẩn nhân ái, nhưng cũng có thể âm thầm hình thành trong tiềm thức và vô thức của các em tính hiếu chiến, hiếu sát, thích trả đũa, nhẫn tâm, hoặc ngược lại, sự mủi lòng ủy mị, mau nước mắt vì quá sức đa sầu đa cảm. Mặt khác, bên cạnh sự đa cảm, các em vẫn còn thiên nhiều về giác quan, thích sờ tận tay nhìn tận mắt, nên các em rất vui thích khi được thưởng cụ thể bằng vật chất hơn là khen ngợi tuyên dương suông suông vậy thôi. Các em rất hãnh diện thấm thía khi được người lớn khéo léo góp ý khích lệ hơn là phê bình chê trách hay nổi cáu lên quát tháo om sòm. Chúng ta thấy, nhà trường đã từng áp dụng những cách khen thưởng khá cụ thể như các bông hoa điểm 10 cho từng môn học, sách truyện làm phần thưởng cuối năm. Bản thân chúng ta khi còn bé, hẳn ai cũng đã từng ao ước hoặc hãnh diện khi thấy tên mình được ghi trên Bảng Danh Dự treo tại một nơi trang trọng và dễ thấy ở trường. Còn Sổ Học Bạ hoặc Sổ Liên Lạc thì không ai muốn cha mẹ mình lại phải đọc thấy những giòng chữ thầy cô chủ nhiệm phê xấu và yếu kém. Do vậy, đây là những cách khen thưởng có vẻ vật chất nhưng lại hàm ý về chiều sâu tinh thần nhiều lắm... Ở lứa tuổi này, người sống với các em phải là một "bề trên" hiểu theo nghĩa rộng nhất, nghiêm minh mà quảng đại, công bình mà bao dung, vẫn luôn đòi hỏi cao mà lại biết khích lệ nâng đỡ. 5. Các em rất hiếu động Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh đó, các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là khủng hoảng về ý thức cử động idée motrice . Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đùa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi táy máy, hì hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức mình. Riêng bên nam, các em rất thích các trò chơi đối kháng, mang tính giao chiến và đua tranh giữa hai phe ví dụ kéo co, cướp cờ, đánh trận giả.... Các em sẵn sàng chơi hăng say hết mình, bởi đối với các em, chuyện thắng thua rất là quan trọng, nó nhằm mục đích tự khẳng định cá tính cho dù các em chưa đủ lý luận cao xa gì lắm về bản thân. Với các em nữ, vấn đề cũng tương tự như khi các em đặc biệt thích các trò chơi tuy nhẹ nhàng hơn con trai, nhưng cũng là chuyện luân phiên thi đua giành phần thắng cho mình ví dụ nhảy cò cò, đánh chuyền, nhảy Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu8 học lèo, chơi ô ăn quan.... Trong thực tế, người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào náo động, lại cho rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức vóc lẫn tâm lý, nên thường la rầy ngăn cấm các em. Người lớn không ngờ đã đẩy các em sớm rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn, rất có hại về lâu về dài. Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý tưởng, các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc mắc. Một khi nơi các em lý trí bắt đầu hoạt động âm thầm, các ý tưởng như thế dần dần sáng tỏ ra, cho dù các em chưa thể lý luận suy diễn theo dạng đặt vấn đề "vì vậy", "cho nên", "do đó" như người lớn... Nhưng mặt khác, các em đã không còn thỏa mãn với dạng câu hỏi "tại sao?" mà đã chuyển dần sang câu hỏi khó hơn nhiều "làm thế nào ?" tức là có khuynh hướng khách quan hơn, sâu xa hơn. Dù vậy, các em chưa thể tập trung tư tưởng lâu để kịp phân tích vấn đề và quan sát một cách kiên nhẫn, các em cũng chưa thể tự mình biết cách học hỏi sao cho đúng mức nếu không được người lớn hướng dẫn dưới dạng "học mà chơi" đầy hấp dẫn. Ở điểm này, người sống với các em phải là một thầy giáo, một cô giáo vừa có kiến thức quảng bác, lại vừa có tâm hồn sâu sắc để truyền đạt tri thức, gợi mở sáng kiến và nhất là vun đắp cho các em những tâm tình nhân ái vị tha, vui tươi và dễ thương, đúng với độ tuổi các em. 6. Các em có thể trung tín đến cùng Khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong một trường hợp bất ngờ, nếu các em được người lớn tin cậy trao phó một trách nhiệm quan trọng nào đó, với lời giải thích kỹ lưỡng và căn dặn chi tiết, các em sẽ hết sức ý thức về công việc, cảm thấy vinh dự và hãnh diện để cố gắng chu toàn hơn cả mong đợi của người lớn. Ấn tượng sâu sắc này sẽ theo các em suốt cuộc đời, hình thành một nhân cách khó gì có thể làm biến dạng. Hiểu được điều này, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy các phong trào giáo dục đứng đắn trên thế giới đều có những nghi thức tập tục rất long trọng như đội mũ, trao cờ, tuyên hứa thiếu nhi, thắt khăn quàng, gắn sao... Tại trường học, có nơi, nếu biết huấn luyện tinh thần và kỹ thuật tới nơi tới chốn, người lớn có thể tin tưởng giao phó cho các em ở các lớp tiểu học đảm nhận chuẩn bị âm thanh, xếp đội hình danh dự, kéo cờ, bắt nhịp và đồng ca bài quốc ca mà không sợ gặp sự cố trục trặc, bởi các em ý thức khá chững chạc về tính cách quan trọng và trang nghiêm của công việc cùng với niềm hãnh diện được đại diện cho toàn trường. Như vậy, ở điểm này, người sống với các em phải là một Người Lãnh Đạo leader đúng nghĩa, biết cách huấn luyện, chỉ dẫn cho các em thành thạo, tháo vát trong các việc nhỏ, vừa tầm hiểu, vừa sức làm của các em mà lại có tầm quan trọng không thua gì việc của người lớn, sau đó, biết mạnh dạn tin tưởng trao phó công việc đó để các em tự chơi, tự làm, tự giải quyết trong khả năng của các em... IV. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂM TÂM LÝ LỨA TUỔI TIỂU HỌC Bé 5 tuổi đến 6 tuổi Dành nhiều thời gian trong năm học đầu tiên ở trường để học các nguyên tắc và các nội quy Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu9 học của môi trường mới. Xấu hổ và thường hay khóc - bé có thể bám chặt lấy bạn. Học cách thực hiện các nhiệm vụ mới như buộc dây giầy. Làm quen với các kỹ năng cơ bản như đọc và viết. Bé 7 tuổi Bé vẫn đang làm quen dần với môi trường ở trường. Chơi thành từng nhóm nhỏ - các bạn trong nhóm thường cùng giới. Tiếp tục phát triển các kỹ năng đọc và viết cũng như bộ môn toán học cơ bản. Thích có một người bạn "cùng phe" sau giờ học. Ít khóc nhè hơn. Bé 8 tuổi Thích tìm hiểu về mọi thứ xung quanh trẻ. Quan tâm đến một số môn học này hơn các môn học khác. Bạn bè cùng trang lứa ảnh hưởng đến trẻ nhiều hơn. Thích chơi với các bạn cùng giới hơn. Bé 9 tuổi Biết nhận thức về bản thân hơn khi chơi trong nhóm. Muốn thay đổi để phù hợp với các bạn cùng lứa hơn. Bắt đầu chê bai quần áo và hành vi của cha mẹ. Tròng ghẹo và thảo luận về các vấn đề của bạn trai hay bạn gái. Quan tâm tới quần áo, kiểu tóc và cân nặng hơn. Bắt đầu có những thay đổi về cơ thể đặc biệt là các bé gái. Bé 10 tuổi Tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các bạn cùng trang lứa. Biết xấu hổ. Chơi với các bạn khác giới nhiều hơn. Phát triển tình bạn bền lâu với bạn bè. Muốn độc lập hơn và bận tâm tới việc hoà nhập với xã hội. Trẻ 11 tuổi Tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các bạn cùng trang lứa. Nhận thức hơn về vị trí của trẻ. Quan tâm tới các chấp nhận của xã hội. Quan tâm hơn tới các bạn khác giới. Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu 10học Muốn được mọi người cư xử giống người lớn. Chỉ trích chính bản thân và người khác. Trẻ 12 tuổi Không thích bị coi như một đứa trẻ. Có những thay đổi chính về thể chất và tình cảm và cũng bắt đầu có nhận thức về giới tính. Bắt đầu tự ý thức và tự nhận thức về bản thân. Muốn khẳng định sự độc lập của trẻ. Thay đổi về thể chất Bé gái 12 tuổi đã hoặc sẽ bắt đầu có những thay đổi về cơ thể khá nhanh. Các bé trai thì phát triển muộn hơn các bé gái 2 năm. Các bé gái có thể dậy thì trong độ tuổi từ 8 hay 9 tuổi cho đến khi 16 hay 17 tuổi. Các bé trai thường dậy thì trong độ tuổi từ 12 đến 14 tuổi hoặc có thể muộn hơn. Trẻ 12 tuổi đang đứng trước ngưỡng tuổi vị thành niên, lứa tuổi có nhiều giấc mơ, lo lắng, mơ mộng và thất vọng. Tâm lý học lứa tuổi _ Chương 3 Tâm lý học lứa tuổi tiểu 11học Đề tài Phân tích quan hệ giao tiếp và biện pháp giáo dục tình bạn tốt đẹp cho lứa tuổi thiếu niên MỤC LỤC I. Phần mở đầu II. Phần nội dung 1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ giao tiếp của thiếu niên. 2. Các quan hệ giao tiếp của thiếu niên 2. 1. Quan hệ giao tiếp của thiếu niên với người lớn-sự hình thành kiểu quan hệ mới 2. 2 Quan hệ giao tiếp của thiếu niên với bạn cùng tuổi 3. Biện pháp giáo dục tình bạn tốt đẹp cho lứa tuổi thiếu niên III. Phần tiểu kết 20 trang Chia sẻ maiphuongdc Lượt xem 8840 Lượt tải 27 Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích quan hệ giao tiếp và biện pháp giáo dục tình bạn tốt đẹp cho lứa tuổi thiếu niên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên an hệ giao tiếp của thiếu niên Tầm quan trọng của thiếu niên không chỉ ở sự biến đổi về thể chất mà ở chỗ, trong thời kì này diễn ra sự phát triển đặc biệt của quan hệ giao tiếp 1 Sự chuyển tiếp từ một kiểu quan hệ đặc trưng giữa người lớn-trẻ con đặc trưng cho tuổi ấu thơ sang một kiểu mới về chất-đặc thù của sự giao tiếp người lớn; 2 Sự bình đẳng đầy thú vị trong giao tiếp với bạn cùng tuổi. Sự giao tiếp của thiếu niên với người lớn – sự hình thành kiểu quan hệ mới Ở tuổi thiếu niên xuất hiện một cảm giác rất độc đáo là “cảm giác mình đã là người lớn”. Các em tự thấy mình không còn là trẻ con nữa nhưng lại cũng có cảm giác mình chưa thực sự là người lớn. Thực ra cảm giác về sự trưởng thành này của bản thân là nét đặc trưng, là trung tâm trong nhân cách thiếu niên. Bởi vì nó biểu thị lập trường sống mới của thiếu niên đối với mọi hành vi và đối với thế giới xung quanh; nó quyết định phương hướng và nội dung của tính tích cực xã hội ở thiếu niên; quyết định hệ thống những rung động và những phản ứng cảm xúc mới của trẻ. Cảm giác về sự trưởng thành này của thiếu niên có thể là do các em tự ý thức và đánh giá được sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, khiến trẻ cảm thấy mình lớn một cách “có căn cứ”. Tuy nhiên, nguồn gốc làm nảy sinh “cảm giác là người lớn “ở các em chính là yếu tố xã hội, nó gắn liền với thế giới người lớn và bạn bè xung quanh. Thiếu niên tham gia nhiều hơn trước vào cuộc sống xã hội, tính tự lập và lòng tin ở những người xung quanh làm cho các em cảm thấy mình giống người lớn ở nhiều điểm. Mặt khác, bản thân người lớn cũng không hoàn toàn xem thiếu niên là những đúa trẻ trước đây, và ở một khía cạnh nào đó người lớn yêu cầu các em cư xử theo chuẩn mực của người lớn… Tất cả nhưng điểm đó đã tạo nên cho thiếu niên nguyện vọng muốn được làm người lớn, được đối xử như người lớn. “Cảm giác mình đã là người lớn“ được thể hiện rất phong phú về cả nội dung và hình thức. Các em chú ý nhiều hơn đến hình thức bên ngoài, tác phong, cử chỉ và những phẩm chất tâm lí, khả năng của mình vì đây là những biểu hiện dễ thấy tính chất người lớn hơn cả. Trong học tập, các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn có quan điểm và lập trường riêng. Trong xã hội, thiếu niên cũng chỉ muốn phụ thuộc vào người lớn ở một mức độ nhất định. Các em đòi hỏi, mong muốn đựoc người lớn đối xử bình đẳng, không can thiệp quá tỉ mỉ vào đời sống riêng của các em. “ở tuổi này, chúng em tự đi tìm chính mình. Dù thành công hay thất bại, chúng em sẽ tự thấy mình xấu hay đẹp hơn về tinh thần” Pascal-16 tuổi, dẫn từ “Nói với tuổi mới lớn”. Ở tuổi này thiếu niên bắt đầu chống đối những yêu cầu mà trước đây nó vẫn thực hiện một cách tự nguyện. Các em quyết tâm bảo vê quan điểm và ý kiến của mình trong cả lời nói và việc làm, thậm chí nhiều em còn tỏ thái độ coi thường những yêu cầu của người lớn. Nhìn chung những biểu hiện về tính “người lớn” ở thiếu niên là muôn hình muôn vẻ và có sự biẻu hiện không giống nhau ở trẻ vị thanh niên. Nguyện vọng muốn được tin tưởng và được đối xử bình dẳng nhất định với người lớn có ý nghĩa không nhỏ tới việc thúc đẩy ở thiếu niên tính tích cực hoạt động, chấp nhận những yêu cầu đạo đức và hành vi của người lớn. Nhưng mặt khác, nó cũng có thể khiến các em chống đối lại khi người lớn chăm sóc, điều khiển trẻ một cách thái quá mà không quan tâm đến ý kiến riêng của trẻ. Từ đây nảy sinh mâu thuẫn, làm cho quan hệ của thiếu niên với người lớn trở nên khó khăn hơn. Mà nguyên nhân chính của hiện tượng này đó là do sự mâu thuẫn trong thái độ của người lớn với thiếu niên. Bên cạnh việc công nhận và đòi hỏi tính người lớn ở thiếu niên thì đối với người lớn nhất là những ông bố, bà mẹ lại vẫn cảm thấy con mình còn bé nhỏ, còn là những “cậu học trò” học sinh phụ thuộc vào bố mẹ nhiều mặt. Không những thế, ngay trong dáng dấp, hành vi của thiếu niên cũng có những biểu hiện mang tính trẻ con. Vì vậy mà người lớn vẫn xem thiếu niên là những đứa trẻ như trước đây. “Mười năm tuổi không ai gọi tôi là người lớn mặc dù mỗi ngày đứng trước gương tôi thấy mình cao hơn nhiều so với năm mười ba mười bốn. Tóc tôi đã dài đến ngang vai chứ không ngắn cũn giống con trai như hồi bé. Tôi không còn bày trò chọc phá anh Hai, không suốt buổi đi nhong nhong với đám bạn cùng xóm để chiều về thấy mẹ lăm lăm cây roi trong tay. Giã từ tất cả những trò nghịch ngợm trước đây, tôi bắt đầu có vẻ nghiêm chỉnh của một người lớn. Nhưng điều đó chỉ có mỗi mình tôi cảm nhận được thôi, còn dưới mắt mọi người, tôi vẫn là một đứa con nít phá phách, ưa gây phiền toái. ” Nguyễn Ngọc Minh Hoa, dẫn theo báo Hoa hoc trò. Do vậy mà ngay từ buổi đầu thiếu niên đã có những tình huống dễ dàng nảy sinh mâu thuẫn với người lớn nếu người lớn vẫn duy trì quan hệ với thiếu niên như trẻ con trước đây. “Từ ngày bắt đầu lớn, tôi có rất nhiều “vấn đề” với ba mẹ. Dường như hai bên không còn thông cảm với nhau được nữa. Ba mẹ áp đặt đủ thứ vì nghĩ đó là điều tốt nhất cho tôi mà chẳng cần tìm hiểu xem tôi thực sự cần gì. ” Clarisse, 15 tuổi “Nói với tuổi mới lớn”. Khi ý thức tự trọng và ý thức cần được đối xử như người lớn phát triển, thiếu niên thường tự đánh giá năng lực của mình cao hơn mức bình thường, thậm chí là “phóng đại” lên điều này lí giải vì sao thiếu niên có thái độ ngang bướng, bất cần, chống đối với những việc bình thường hàng ngày và những thất bại của bản thân thiếu niên. Đây chính là một khó khăn điển hình trong giao tiếp của thiếu niên với người lớn. Trên thực tế, nhiều ông bố bà mẹ nhận thấy sự phát triển nhảy vọt ở con mình thì thường sợ rằng con mình đã lớn và sẽ rời xa mình cảm giác này thường xuất hiện nhiều và mạnh ở người mẹ. Chính lòng thương con ấy càng khiến cho việc từ bỏ thói quen chăm sóc, điều khiển, kiểm tra con cái một cách tỉ mỉ của các bậc phụ huynh trở nên khó khăn hơn. Vì thế mà sự “đụng độ” giữa người lớn và thiếu niên xảy ra thường xuyên hơn, thậm chí nhiều khi trở nên gay gắt. Do vậy mà không ít những bà mẹ, trước sự thay đổi của con muốn tìm hiểu xem con mình đang nghĩ gì, định làm gì đã đọc trộm nhật ký của con. Khi biết được chuyện này thiếu niên trở nên tức tối, thất vọng và cảm giác không thể tin tưởng, thậm chí nhiều em xa lánh coi thường bố mẹ… Chính sự quan tâm quá mức mà không hiểu được sự phát triển tâm lý của thiếu niên mà người lớn đã vô tình tạo ra hố sâu khoảng cách trong quan hệ của thiếu niên với người lớn. Do vậy mà không ít trẻ ở độ tuổi này đã viết thư, gọi điện đến những chuyên viên tâm lí, đến đài, báo, tạp chí dành cho lứa tuổi các em mới lớn để than vãn và bày tỏ thái độ “Em không thể chấp nhận được việc mẹ em đã đọc lén nhật ký của em, em đã mất hết niềm tin vào bố mẹ. Em phải làm gì khi bố mẹ đã đọc trộm bức thư em gửi cho K. Trong khi em đã giấu bức thư đó ở tận đáy tủ… ”. Nếu cứ duy trì tình trạng như thế thì mâu thuẫn giữa người lớn và thiếu niên ngày càng trở nên sâu sắc, nhiều khi khiến các em trở căm ghét bố mẹ, nghe theo lời rủ rê của những kẻ xấu và trở nên sa ngã… Không những thế, nếu cả hai bên không cố gắng thay đổi thì mâu thuẫn này sẽ kéo dài suốt cả thời kì thiếu niênvà mức độ xung đôt có thể sẽ tăng lên. Theo thời gian, bằng những hình thức không phục tùng và chống đối khác nhau, thiếu niên đã phá vỡ quan hệ trẻ con với người lớn trước đây và buộc họ vào kiểu quan hệ mới. Nếu quan hệ đó không được thay đổi hay thay thay đổi chậm sẽ làm cho thiếu niên xa lánh người lớn, cho rằng người lớn bảo thủ, không thể hiểu và không chịu hiểu những ý kiến của các em. Từ đó người lớn dễ mât đi vị trí giáo dục cũng như ảnh hưởng của mình tới trẻ. Do vậy, trong quan hệ giao tiếp với thiếu niên người lớn phải có những hiểu biết nhất định về lứa tuổi dậy thì này. Người lớn phải tế nhị, khéo léo và tôn trọng quyền độc lập, bình đẳng ở các em, định hướng cho các em trong nhiều hoạt động. Hoạt động giao tiếp của thiếu niên với bạn bè Như chúng ta đã biết, hoạt động giao tiếp ở thiếu niên bao gồm hai hệ thống chính là giao tiếp với lớn và với bạn bè chủ yếu là bạn cùng tuổi . Trong mối quan hệ giao tiếp với người lớn ở vị trí không bình đẳng, nguyên tắc trong mối quan hệ này là “đạo đức vâng lời”, nó thường mang đến cho thiếu niên cảm thấy bị điều khiển, làm cho “cảm giác là người lớn” của trẻ bị nén lại. Trong khi đó, ở hoạt động giao tiếp với bạn cùng tuổi lại mở ra cho thiếu niên một cảm giác mới. Trong mối quan hệ này, các em ở vị trí bình đẳng và tạo ra cho mình “đạo đức vâng lời”, ý kiến của các em đưa ra đều được lắng nghe và tôn trọng… Chính nguyên tắc bình đẳng trong giao tiếp bạn bè đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ với các em. Sự đối lập ở hai vị trí khác nhau trong giao tiếp với người lớn và bạn cùng tuổi đã cho thấy chỉ có sự giao tiếp với bạn bè chứ không phải với người lớn đã đem lại cho thiếu niên sự thỏa mãn nhiều hơn, trở nên cần thiết hơn và vai trò chủ đạo hơn trong sự phát triển đạo đức, sự phát triển nhân cách của các em. Như vậy, có thể khẳng định rằng hoạt động giao tiếp với bạn cùng tuổi là hoạt động chủ đạo trong hoạt động giao tiếp của thiếu niên. Sự mới mẻ trong vị trí giao tiếp đã làm cho hoạt động giao tiếp của thiếu niên trở nên đặc biệt hấp dẫn. “Đạo đức bình đẳng” phù hợp với cảm giác trưởng thành của các em, từ đó mà tạo ra sự phát triển quan hệ bạn cùng tuổi theo chiều sâu, mang nhiều giá trị tích cực. Quan hệ của các em trở nên phong phú, phức tạp và đa dang hơn so với học sinh tiểu học. Các em có thể tâm sự với nhau hàng giờ, hàng buổi về rất nhiều chuyện lớn nhỏ khác nhau mà không biết chán. Trong nhóm bạn, các em có điều kiện hơn để hoạt động độc lập, trao đổi, tìm hiểu, tâm sự với nhau về những vấn đề cùng quan tâm. Tuy nhiên, tùy từng mối quan hệ mà thiếu niên chia ra các mức độ khác nhau trong tình bạn như bạn cùng học, bạn cùng trường, bạn hay chơi, ban thân… Lúc đầu, phạm vi giao tiếp của các em còn rộng nhưng chưa bền vững, dần dần các em sẽ gắn bó với nhau trong một phạm vi hẹp hơn. Với thiếu niên, việc giao tiếp với bạn cùng tuổi là quan hệ riêng của cá nhân các em và người lớn không có quyền can thiệp vào. Đây thực ra cũng là một nhu cầu chính đáng ở tuổi thiếu niên. Các em mong muốn có một tình bạn chân thành, thân thiết đẻ có thể gửi gắm mối tâm tình, để các em có thể trao đổi những băn khoăn, thắc mắc về sự phát triển tâm lí cũng như những vấn đề riêng tư của tuổi mới lớn. Nếu như quan hệ của thiếu niên với người lớn càng không suôn sẻ, không thuận hòa thì sự giao tiếp với bạn bè càng lớn và sự ảnh hưởng tới thiếu niên càng mạnh mẽ hơn. Trong quan hệ của mình, thiếu niên luôn muốn được bạn bè chú ý, quan tâm, thừa nhận và tôn trọng mình. Nguyên vọng hai mặt này của thiếu niên khát vọng giao tiếp và được bạn bè tôn trọng là nhu cầu quan trọng trong đời sống tình cảm của các em. Nhu cầu này khiến cho thiếu niên nhạy cảm hơn với những ý kiến đánh giá tích cực lẫn tiêu cực của bạn bè. Những lời nhận xét của bạn giúp trẻ nhận ra những thiếu sót và cố gắng đáp ứng những yêu cầu đưa ra trong quan hệvới bạn. Đồng thời, các em cũng đưa ra cho bạn những nhu cầu mới về hành vi, quan hệ… sau đó các em tự theo dõi, đánh giá lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. Mặt khác, những lời nhận xét mang tính “hiềm khích”, hay sự bát hòa trong quan hệ với bạn cùng tuổi, sự tan vỡ một tình bạn… đều mang đến cho các em những cảm xúc nặng nề-được đánh giá như một bi kịch của cá nhân. Sự khó chịu nhất với thiếu niên là sự lên án của tập thể, sự tẩy chay của bạn bè. Sư đơn độc trải nghiệm thường năng nề và hầu như không thể chịu đựng nổi với thiếu niên. Những yếu tố đó thôi thúc thiếu niên sửa chữa lỗi lầm của mình, nhưng ở không ít em điều đó lại đẩy đến việc tìm bạn bè bên ngoài nhà trường, dẫn đến một số em bị lôi kéo bởi các nhóm, các bè đảng tự phát dưới nhiều hình thức. Do vậy người lớn nhất là những người làm công tác giao dục phải lưu ý đến việc định hướng cho sự lựa chọn bạn của trẻ, tránh những hậu quả đáng tiếc. Tình bạn ở thiếu niên có nhiều nội dung và sắc thái mới so với trước đây mà đặc trưng hơn cả chính là những yêu cầu của các em về tình bạn chân chính, người bạn chân chính. Nếu như ở tiểu học, các em thường đánh giá vị trí của bạn qua học tập, qua sự thực hiện những yêu cầu của người lớn những đứa trẻ học giỏi, ngoan ngoãn, vâng lời thường được khen và có nhiều bạn quý mến. Bước sang tuổi thiếu niên, những phẩm chất được các em đánh giá là quan trọng đã thay đổi. Các phẩm chất mà các em quan tâm là tình đồng chí, tình bạn, sự nhiệt tình, nang nổ, trung thành… Vì thế, nhiều học sinh được bố mẹ, giáo viên đánh giálà tốt nhiều khi không trùng hợp với nhưng học sinh mà các em xem là có uy tín nhất. Thực tế cũng cho thấy nhiều học sinh ngoan, học giỏi nhiều khi khong hoàn toàn là mẫu người bạn mà các em chọn. Tiêu chuẩn hàng đầu của các em với bạn bè là tôn trọng các phẩm chất của con người. Do vậy, không ít giáo viên khi mới nhận lớp, do chưa hiểu rõ về lớp, khi xây dựng cán bộ lớp, cán bộ đội đã không trưng cầu dân ý “ mà lựa chọn ngay những em có kết quả học tốt. Điều này khiến cho những học sinh khác có tâm lí không đồng ý nhưng lại không biêu lộ thái độ gì và đánh giá giáo viên, cho rằng giáo viên thiên vị, thiếu khách quan, thậm chí nghi ngờ năng lực của giáo viên. Do đó người giáo viên cũng cần phải lưu ý vấn đề này trong quá trình lãnh đạo lớp. Nhìn chung tình bạn ở tuổi thiếu niên rất hồn nhiên và trong sáng, những tính toán vị kỉ thường để lại những dấu ấn khó phai mờ trong suốt cả cuộc đời các em. Các em chơi với nhau vô tư thoải mái, những ưu điểm của bạn cùng học mà trẻ thích thường làm các em nảy sinh những đánh giá về mình một cách nghiêm túc, từ đó nhận thấy mình còn thiếu những phẩm chất gì mà đươc bạn bè đánh giá cao. Lúc đó bạn bè trở thành hình mẫu và thiếu niên cố gắng bắt trước, rèn luyện mình theo mẫu đó. Đây là một khía cạnh tích cực trong tình bạn của tuổi thiếu niên, giúp các em hoàn thiện nhân cách của nhau. Trong giao tiếp của thiếu niên, việc trò chuyện để trao đổi tâm tư, nguyện vọng thực sự có ý nghĩa quan trọng. Ở tuổi này, dễ nhận thấy việc những đôi bạn thân có thể ngồi nói chuyện với nhau hàng giờ, hàng buổi, kể cho nhau nghe hàng tá chuyện về gia đình, bạn bè, nhà trường, xã hội, về những tâm sự thầm kín ở tuổi các em mà không hề biết chán. Các em mới gặp nhau trên trường nhưng về nhà vẫn có rất nhiều chuyện muốn và cần kể cho nhau nghe. Hoạt động này nhiều khi vượt quá các hoạt động khác và ảnh hưởng không nhỏ tới viẹc học tập, khiến cho người lớn không vừa lòng, có nhưng biểu hiện ngăn cấm… Với thiếu niên, lý tưởng tình bạn của các em là “sống chết có nhau”, sẵn sàng chia ngọt xẻ bùi… Điều đó nghĩa là khi đã là bạn của nhau thì người này sẽ thâm nhập và chi phối vào nhiều mặt trong đời sống của người kia. Các vấn đề về đạo đức, cuộc sống, thẩm mỹ… được các em thảo luận nhiều và thường kéo dài đầy cảm hứng. Nhờ tranh luận, suy ngẫm các em hình thành cho mình những quan điểm, niềm tin có tính chất riêng, mang tính cá nhân của mình. Cao hơn nữa, nó trở thành nhưng định hướng mục đích về sự lựa chọn nghề nghiệp sau này cũng như định hướng nhận thức cho trẻ về thế giới xung quanh. Đó là những tình bạn chân chính có giá trị lớn trong việc hình thành nhân cách của thiếu niên. Kiểu tình bạn ngược lại thường dựa trên những nguyện vọng đối với sự trưởng thành mang tính hình thức bề nổi, đua đòi, bắt chước người lớn như uống rượu, hút thuốc, chơi cờ bạc, hút hít các chất ma túy… Trong hoàn cảnh sống và giáo dục không tốt, trong môi trường thiếu lành mạnh, thiếu niên sẽ dễ bị nhiễm những kiểu tình bạn tiêu cực trên và dễ sa ngã. Do đó, trẻ cần có sự cảm thông, định hướng giúp đỡ của người lớn. Như vậy có thể thấy ý nghĩa của việc giao tiếp với bạn cùng tuổi ở thiếu niên là rất to lớn. Vì qua hoạt động giao tiếp này các em đã hình thành được những chuẩn mực của kiểu quan hệ đặc biệt – quan hệ nhân cách đặc thù của người lớn. Măc dù vậy người lớn, nhất la giáo viên cần phải lưu ý rằng trong giao tiếp với bạn cùng tuổi, thiếu niên do yêu quý bạn, tin tưởng bạn, đã cảm thông, thậm chí đồng tình với những điểm còn chưa tốt ở bạn. Đồng thời xem những điểm chưa tốt ấy cũng có thể được chấp nhận ở mình mà không nhận thấy đó là những lỗi lầm cần phải sửa. Lúc này sự chỉ bảo của người lớn thực sự quan trọng với thiếu niên. Một đặc trưng đáng chú ý trong quan hệ của thiếu niên với bạn cùng tuổi-mà theo người viết không thể không nói đến -đó là sự xuất hiện những sắc thái mới trong quan hệ với bạn khác giới – những xúc cảm giới tính. Tự ý thức về sự phát triển của tuổi dậy thì làm cho thiếu niên nhanh chóng nhận thức được đặc điểm giới tính của mình. Ở các em xuất hiện sự quan tâm đến nhau, có nguyện vọng được bạn khác giới ưa thích. Do đó ban đầu thiếu niên thường quan tâm đến dáng vẻ bên ngoài của mình-những yếu tố gây sự hấp dẫn. Ở một số học sinh có sự rung cảm sâu sắc, để lại ấn tượng khó quên. Tuy nhiên sự biểu lộ thái độ, mức độ quan tâm đến nhau lại được thể hiện khá đối lập nhau ở em trai và em gái. Đối với các em nam, sự quan tâm của các em ban đầu có xu hướng tản mạn và biểu hiện rất trẻ con “gây sự “ với các em gái xô đẩy, giật tóc, giẫm dép, giấu cặp… . Về sau, những quan hệ này thay đổi, mất tính trực tiếp, xuất hiện tính ngượng ngùng, nhút nhát, e thẹn. Còn ở các em gái, thái độ quan tâm đến bạn khác giới thường thể hiện khá thụ động và kín đáo làm dáng hơn trước, chú ý đến hình thức hơn trước. Các em thường che giấu tình cảm bằng cách cố tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm với các bạn nam. Những hành vi, xúc cảm, tình cảm của các em có vẻ đối lập vừa quan tâm đến nhau nhưng lai vừa phân biệt khoảng cách nam- nữ. Song, nhìn chung các em đều có một hiện tượng tâm lí chung là chú ý đặc biệt hơn tới bạn khác giới, mong bạn khác giới chú ý tới mình. Ở lớp 6-7 tình bạn khác giới còn hạn chế, đến lớp 8-9 nảy sinh thường xuyên hơn. Các em gắn bó mật thiết hơn và tình cảm đó lưu giữ lâu hơn. Các em có thể thích nhau vì nhưng lí do rất giản đơn như “vì bạn ấy xinh xắn, hát hay’, “vì bạn ấy học giỏi, lại tốt với mọi người”, “vì bạn ấy rất quan tâm đến em”… hay vì rất nhiều lí do khác nữa… có thể nói quan hệ với bạn khác giới là một tình cảm lãng mạn, gợi lên những ý niệm tốt đẹp, giúp đỡ, bảo vệ lẫn nhau. Tình cảm này là động cơ nổi bật giúp các em hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên mối cảm tình không được đáp lại nhiều khi là nguồn gốc của sư rung cảm mạnh mẽ gây ra ở thiếu niên những tâm trạng buồn rầu, nhớ nhung, tâm trang phân tán… Nhưng ngược lại, nó sẽ gây cho thiếu niên tâm trạng phấn chấn dịu dàng. Sự quan tâm đến nhau một cách vô tư, trong sáng có tác dụng thúc đẩy các em tiên bộ cả về học tập và nhân cách. Ở đây người viết xin trích đoạn một lá thư nói về tác dụng của những rung cảm đầu đời. Đây là lá thư bày tỏ tình cảm rất trong sáng của một thiếu niên nữ với thần tượng của mình-anh Nguyễn Thành Vinh- người đã “thay đổi cuộc sống của em”. “Từ ngày biết anh, cuộc sống của tôi thay đổi đến chóng mặt, từ một con bé nhu mì, nhút nhát, khép kín đến tẻ nhạt… tôi trở thành một con bé vui vẻ, tự tin, cởi mở. Tôi bỗng yêu các môn học, những giờ lên lớp… ”, “từ một con bé học hóa rất tệ tôi lao vào học thêm và ôn luyện để thi vào lớp hóa như anh”, “trong lớp nhìn cô giáo dạy hóa, tôi ngỡ là anh. Nhìn sân trường mình tôi ngỡ là mìinh đang ở sân trường Lam Sơn đầy nắng, gió và anh… đang ở đó”, ” kể cả trong giấc mơ của tôi cũng có nụ cười của anh… ”. Quả thực, đó là những rung động ban đầu của tuổi mới lớn, kín đáo, tế nhị đầy mơ mộng. Đó không phải là tình yêu lứa đôi mà là những xúc cảm đáng trân trọng, phù hợp với quy luật phát triển ở thiếu niên. Hơn lúc nào hết, thiếu niên cần một người bạn chân thành, tin cậy, có thể cảm thông, chia sẻ với các em. Những can thiệp thô bạo của người lớn dễ làm cho thiếu niên bị tổn thương, bị chế giễu, xúc phạm và thường dẫn đến hậu quả không tốt đẹp. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục phải có những phương pháp giáo dục tình bạn tốt đẹp cho thiếu niên một cách lành mạnh, trong sáng, khéo léo, tế nhị. Tổng kết lại, một lần nữa người viết xin được nhấn mạnh rằng quan hệ giao tiếp là vô cùng quan trọng với thiếu niên. Ttrong đó giao tiếp với bạn cùng tuổi là họat động chủ đạo và có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát triển nhân cách của các em. Qua giao tiếp, các em nhận thức được mình và nhận thức đươc người khác. Các em nhờ vậy mà tiếp thu được những chuẩn mực đạo đức mới, dần nắm được những chuẩn mực kiểu quan hệ của người lớn, giúp các em trương thành về mặt xã hội. 3. Những biện pháp giáo dục tình bạn tốt đẹp ở thiếu niên Như trên đã nói, hoạt động giao tiếp với bạn cùng tuổi là hoạt động chủ đạo và chi phối không nhỏ tới sự phát triển tâm lí, nhân cách của thiếu niên. Tuy nhiên, trong hoạt động giao tiếp của các em, do chưa thực sự tưởng thành nên trong cách ứng xử, giao tiếp của mình các em luôn cần có sự hướng dẫn, uốn nắn, chỉ bảo của người lớn. Qua quá trình tìm hiểu người viết nhận thấy có một số vấn đề nổi trội trong giao tiếp của thiếu niên với bạn cùng tuổi và biện pháp giáo dục như sau Ở lứa tuổi thiếu niên, sự lên án chân thành và thẳng thắn của tập thể, sự tẩy chay của bạn bè… sẽ là những tình huống rất khó chịu với các em. Vì vậy, người giáo viên phải đặc biệt lưu ý, tránh tình trạng phê bình tập trung và phê bình các em trước đám đông. Vì ở nhiều em sự phê bình đó được xem như lời chế giễu, coi thường chứ không đơn thuần là sự góp ý chân thành. Có một câu ngạn ngữ khuyên chúng ta rằng “khen bạn trước đám đông nhưng phê bình bạn nơi vắng người”. Vì thế một nhiệm vụ nữa của người giáo viên là phải hướng dẫn học sinh nhất là cán bộ lớp, cán bộ đoàn phải biết cách tổ chức lớp, tổ chức phê bình và tự phê bình một cách có hiệu quả mà không mang đến sự tổn thương cho bạn mình. Chính do sự thiếu tế nhị trong việc phê bình đối với thiếu niên mà nhiều em đã chán ghét những mối quan hệ bạn bè trong nhà trường. Các em cho rằng nhưng người bạn đó không hiểu mình và rồi việc tìm kiếm những người bạn bên ngoài nhà trường là điều dễ hiểu ở thiếu niên. Việc kết bạn với những nhóm bên ngoài nhà trường, không được giáo dục chu đáo khiến các em dễ bị lôi kéo bởi các phần tử xấu dẫn đến sa ngã… Do đó việc “chọn bạn mà chơi” đối với thiếu niên là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng lớn đến nhân sinh quan của các em về sau. Với một người giáo viên, việc định hướng những yêu cầu, những chuẩn mực trong việc lựa chọn bạn cho thiếu niên là rất quan trọng. Giáo viên nên kể cho thiếu niên nghe những bài học xã hội về các mối quan hệ bạn, cả tốt lẫn xấu. Đồng thời, ngoài công tác giảng dạy, giáo viên nên quan tâm, hỏi thăm, tâm sự với trẻ, phải biết tới các môi quan hệ của học sinh ở một mức độ nhất định. Một thực tế nữa cũng thường xuyên xảy ra ở lớp học, đó là việc giáo viên khi đánh giá học sinh hay xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ đoàn thường chọn những bạn có kết quả học lực khá giỏi mà không cần biết học sinh đó có uy tín, có được bạn bè tôn trọng hay không. Sở dĩ có hiện tượng này vì bước sang tuổi thiếu niên, vị trí của bạn được các em đánh giá dựa trên những chuẩn mực đạo đức của tình bạn, tình đồng chí. Do vậy sự lựa chọn cá nhân của giáo viên không chỉ làm cho học sinh hiểu nhầm giáo viên mà còn làm cho các em xa lánh người được lựa chọn-cán bộ lớp mà giáo viên đã chọn. Bởi vì các em cho rằng bạn học sinh đó được cô giáo thiên vị, cho rằng bạn đó xu nịnh, thậm chí các em còn đặt dấu chấm hỏi trong quan hệ của giáo viên và học sinh ấy. Do đó, giải pháp ở đây là giáo viên cần phải khách quan trong việc lựa chọn, khi lựa chọn nên dùng biện pháp trưng cầu dân ý, mọi việc làm, giao tiếp với học sinh cần tế nhị, khéo léo, trong sáng. Đặc trưng ở tuổi thiếu niên là sự thân thiêt đặc biệt trong mối quan hệ của những đôi, những nhóm bạn thân. Các em thường tâm sự với nhau về rất nhiều vấn đề, từ đó hình thành nên những quan điểm, lí tưởng cá nhân về cuộc sống, thẩm mỹ, đạo đức… Chính vì thế mà các em thường dễ cảm thông, bỏ qua và đồng tình với những điểm sai ở bạn, xem những biểu hiện sai ấy là bình thường ở cả bạn và mình. Đây là khía cạnh hạn chế trong giao tiếp ban bè ở các em, rất cần sự đinh hướng, giáo dục của người lớn. Ở trường hợp này người lớn nên nhẹ nhàng khuyên bảo chỉ cho trẻ thấy điểm sai và hậu quả của nó, khuyến khích các em từ bỏ những khuyết điểm ấy và phát huy những điểm mạnh khác. Như trong bài viết đã nói, có một đặc trưng đáng lưu ý trong quan hệ giao tiếp của thiếu niên với bạn cùng tuổi là sự xuất hiện những sắc thái mới trong quan hệ với bạn khác giới- những xúc cảm giới tính. Nhìn chung, những xúc cảm của các em là trong sáng, nó là một động lực thúc đẩy các em làm việc tốt, tự hoàn thiện mình. Nhưng không phải tất cả thiếu niên đều có những rung cảm như vậy. Một số em sớm bị cuốn hút vào vào con đường yêu đường “yêu đương”. Nhiều khi chính các em cũng không hiểu rõ tình cảm của mình, vẫn cho rằng đó chỉ là tình bạn nên tình cảm này còn được gọi là tình yêu- bạn bè. Tuy nhiên nó vẫn có ảnh hưởng không lợi đến tâm lý của các em. Lí trí chưa đủ vững để giúp các em làm chủ những rung cảm mãnh liệt của viẹc yêu đương quá sớm. Đầu óc bị phân tán, thời gian và tâm trí bị cuốn hút vào đó nên kết quả Các file đính kèm theo tài liệu này TLH Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Trần Lâm Khoa - Khoa Sản phụ khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park. Tuổi dậy thì vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi thiếu nhi và tuổi trưởng thành. Chăm sóc, giáo dục sức khỏe sinh sản tuổi dậy thì đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tương lai sự nghiệp của mỗi người cũng như chất lượng dân số của toàn xã hội. 1. Tuổi vị thành niên là gì? Tuổi dậy thì – vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Độ tuổi vị thành niên là 10 – 18 tuổi vị thành niên, dưới tác dụng sinh lý của hormone, cơ thể trẻ em sẽ diễn ra hàng loạt những thay đổi về hình dáng, cơ quan sinh dục, tâm sinh lý, phân biệt rõ giới tính nam/nữ và bắt đầu có khả năng tình dục, khả năng sinh khỏe sinh sản vị thành niên là tình trạng khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những yếu tố liên quan tới cấu tạo và hoạt động của bộ máy sinh sản ở tuổi vị thành niên. 2. Những thay đổi về sinh lý ở tuổi vị thành niên Với trẻ gáiVề thời gian Bắt đầu từ khi 8 – 13 tuổi, trung bình 15 tuổi và hoàn tất dậy thì vào thời điểm trẻ được 13 – 18 tuổi;Về phát triển cơ thể thay đổi ở vú núm vú nhô lên rõ hơn, hình thành quầng vú và bầu vú, phát triển đầy đủ sau 18 tháng; phát triển xương chậu khung chậu của nữ tròn hơn và rộng hơn khung chậu của nam; xương đùi, các mô mỡ hình thành đường cong; phát triển chiều cao, cân nặng; bộ phận sinh dục phát triển âm hộ, âm đạo to ra, tử cung và buồng trứng phát triển; buồng trứng bắt đầu hoạt động bằng việc xuất hiện kinh nguyệt;Về thay đổi sinh lý bắt đầu xuất hiện kinh nguyệt. Trong khoảng 1 năm đầu khi có kinh, kinh nguyệt không đều và thời gian hành kinh cũng thay Với trẻ traiVề thời gian Bắt đầu dậy thì khi trẻ được 10 – 15 tuổi;Về thay đổi cơ thể vỡ tiếng; có ria mép xuất hiện và râu ở cằm; phát triển chiều cao và cân nặng; tuyến bã và tuyến mồ hôi phát triển, xương ngực và vai phát triển; các cơ rắn chắc hơn; hình thành trái cổ do sụn giáp phát triển; dương vật và tinh hoàn to lên;Về thay đổi sinh lý tinh hoàn hoạt động sinh ra nội tiết sinh dục nam và tinh trùng; biểu hiện xuất tinh, những lần đầu là mộng tinh. Với trẻ trai có thay đổi về cơ thể 3. Những thay đổi về tâm lý ở tuổi vị thành niên Với những đặc điểm sinh lý riêng biệt, trẻ vị thành niên dễ thay đổi tính cách, hành vi ứng xử như sauTính độc lập trẻ có xu hướng tách ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ, chuyển từ sinh hoạt gia đình sang sinh hoạt bạn bè để đạt được sự độc lập. Đôi khi, trẻ có biểu hiện chống đối lại các quan điểm của cha cách cố gắng khẳng định mình như một người lớn, có hành vi bắt chước người cảm chuẩn bị cho mối quan hệ yêu đương, học cách biểu lộ tình cảm và điều khiển cảm xúc, phát triển khả năng yêu và được yêu, tỏ thái độ thân mật trong mối quan hệ với người tích hợp thu thập thông tin từ cha mẹ, nhà trường, bạn bè, xã hội,... để tạo ra giá trị của bản thân, tạo sự tự tin và cách ứng tuệ trẻ vị thành niên thường thích lập luận, nhìn sự vật theo quan điểm lý tưởng hóa. 4. Nguy cơ hay gặp ở tuổi vị thành niên Do những thay đổi trên, trẻ vị thành niên dễ bị dụ dỗ, lường gạt, mua chuộc, xâm hại và dễ bắt chước những thói hư tật nguy cơ hay gặp ở trẻ là Quan hệ tình dục không an toànMang thai sớm ngoài ý muốn, dễ sảy thai, đẻ non, nhiễm độc thai, làm tăng nguy cơ tử vong của người mẹ; làm mẹ quá trẻ; trẻ sinh ra thiếu cân, suy dinh dưỡng, mắc bệnh hoặc thậm chí là tử vong; bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai; dễ nảy sinh tâm lý chán nản; phải gánh chịu định kiến xã hội; gánh nặng về kinh tế khi nuôi con; phá thai có thể dẫn đến các tai biến như nhiễm trùng, thủng tử cung, vô sinh,...Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và thậm chí là HIV/ Dễ bị lôi kéo sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện Thời kỳ vị thành niên, trẻ gặp nhiều vấn đề khủng hoảng, hoang mang về tâm lý. Tuy trưởng thành về mặt cơ thể nhưng trẻ vị thành niên vẫn cần được giúp đỡ, giáo dục từ gia đình và nhà trường để phát triển đúng đó, gia đình, nhà trường và chính trẻ vị thành niên cần Rèn luyện về kỹ năng sốngChủ động tìm hiểu kiến thức về giới tính, sức khỏe sinh sản tuổi thành niên từ cha mẹ, thầy cô, người thân và bạn bè;Tâm sự những lo lắng, băn khoăn với người thân hoặc thầy cô;Duy trì thời gian biểu học tập, nghỉ ngơi, tập luyện và giải trí phù hợp;Phân biệt rõ ràng giữa tình yêu và tình bạn trong Chăm sóc sức khỏe thể chất và tâm lý Chăm sóc sức khỏe thể chất và tâm lý cho trẻ Trẻ cần được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết trong chế độ ăn gồm protein, vitamin, khoáng chất, tinh bột,... Cần có sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, người thân và thầy cô giáo;Tránh xa các chất kích thích như rượu bia, thuốc lá, ma túy,...Cha mẹ cần đặt mình vào vị trí của con, giúp con giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Cha mẹ cần tôn trọng quyết định của con nếu phù hợp. Phụ huynh cũng cần căn cứ vào nhu cầu, sở thích và năng lực của trẻ vị thành niên để hướng nghiệp phù Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niênTrẻ nữ cần biết cách vệ sinh thời kỳ kinh nguyệt, đi khám nếu đến 15 – 16 tuổi vẫn chưa có kinh nguyệt và bổ sung viên sắt theo chỉ định của bác sĩ để phòng tránh thiếu máu do thiếu nam phải biết phát hiện những bất thường về cơ quan sinh dục của mình hẹp bao quy đầu, tinh hoàn ẩn, lỗ tiểu có vị trí bất thường để đi khám kịp thời; không mặc quần lót bó sát, quá xa hình ảnh, phim ảnh, trang web đồi trụy, khiêu nên quan hệ tình dục trước tuổi trưởng quan hệ tình dục cần thực hiện tình dục an toàn chung thủy, sử dụng bao cao su đúng cách mỗi khi quan hệ tình dục để tránh mang thai ngoài ý muốn, bệnh lây qua đường tình dục và nhất là HIV/ đoạn dậy thì - vị thành niên là giai đoạn trung gian chuyển mình từ trẻ con sang người lớn ở trẻ. Cha mẹ cần hết sức lưu ý chăm sóc sức khỏe tâm sinh lý của trẻ ở giai đoạn này để con có bước đệm vững chắc cho giai đoạn trưởng thành. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Rối loạn kinh nguyệt ở tuổi dậy thì Phải làm sao? Hormone ảnh hưởng thế nào đến dậy thì? XEM THÊM Bổ sung canxi cho trẻ tuổi dậy thì Điều gì hình thành nên con trai và con gái? Đặc điểm tâm lý của trẻ em độ tuổi nhi đồng và vị thành niên

biện pháp giáo dục lứa tuổi thiếu niên