🌀 Lâm Trường Là Gì
Học ngành Ngôn ngữ Nhật ra trường làm gì? Trong thời gian qua, Nhật Bản là một trong những nhà đầu tư nước ngoài chiến lược quan trọng của Việt Nam. Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính tới tháng 10/2015, Nhật Bản có gần 2800 dự
Về tỷ giá và ngoại tệ, từ đầu năm 2022 đến nay (đặc biệt là từ giai đoạn tháng 3), tỷ giá và thị trường ngoại tệ chịu áp lực lớn từ những diễn biến phức tạp, khó lường trên thị trường quốc tế (Fed đẩy mạnh lộ trình thắt chính sách tiền tệ, tăng lãi
1. Lâm sản là gì? Theo khoản 16 Điều 2 Luật Lâm nghiệp 2017, lâm sản là sản phẩm khai thác từ rừng bao gồm thực vật rừng, động vật rừng và các sinh vật rừng khác gồm cả gỗ, lâm sản ngoài gỗ, sản phẩm gỗ, song, mây, tre, nứa đã chế biến. Cụ thể, khai thác lâm
Môi trường là gì? "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên." (Theo Ðiều 1, Luật Bảo vệ Môi
Tuệ Lâm là một cái tên hiện nay đang được nhiều ba mẹ lựa chọn đặt cho bé gái. Tuy nhiên, ý nghĩa tên Tuệ Lâm là gì không hẳn ai cũng biết. Để giải đáp thắc mắc của các bậc phụ huynh ý nghĩa tên của tên này và có nên đặt tên Tuệ Lâm cho con gái hay không. Bài viết này sẽ là câu trở lời dành cho bạn.
Bạn đang xem: Nhân viên bán hàng thị trường là gì. Để học tiếp thị có hiệu quả, cần phải nắm bắt rõ ràng thị hiếu và nhu cầu của khách hàng. do đó, giao tiếp trực tiếp với khách hàng làm cho chiến lược tiếp thị thực tế hơn, đây là nhiệm vụ của nhân viên kinh
Môi trường chính là không gian sống của loài người và mọi sinh vật. Môi trường là nơi cung cấp những tài nguyên thiên nhiên như rừng, khoáng sản, động thực vật quý hiếm,… phục vụ cho cuộc sống của con người. Nguồn nước, không khí, đất là những thứ tác động trực tiếp tới sức khỏe của con người.
Quảng trường lam viên tọa lạc tại đường trần quốc tế, quận 1, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. nơi đây là trung tâm của thành phố, một vị trí cực kỳ đắc địa của dalat. đường đến quảng trường công viên dalat
Mục đích của lập trình nhúng là để phục vụ cho những bài toán, vấn đề chuyên dụng trong lĩnh vực tự động hóa điều khiển, công nghệ truyền tin. Do đó, lập trình nhúng thường được thực hiện để thiết kế một chức năng riêng biệt nào đó trong hệ thống này. Mức
cAaed. Lâm học là ngành sản xuất độc lập với chức năng là xây dựng, quản lý, bảo vệ và khai thác rừng, chế biến lâm sản,… Trong sự phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay thì ngành Lâm học đang là ngành được đánh giá cao. Chính vì thế, số lượng các bạn thí sinh muốn theo học ngành này không còn là con số nhỏ. Để có thêm hiểu biết về ngành Lâm học hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây. Nội dung bài viết1 Ngành Lâm học là gì?2 Các khối thi vào ngành Lâm học là gì?3 Điểm chuẩn ngành Lâm học là bao nhiêu?4 Những trường nào đào tạo ngành Lâm học?5 Liệu bạn có phù hợp với ngành Lâm học?6 Cơ hội việc làm của ngành Lâm học như thế nào?7 Mức lương dành cho người học ngành Lâm học là bao nhiêu?8 Kết luận Thế nào là ngành lâm học? Lâm học hay còn gọi là Lâm nghiệp tiếng Anh Forestry đây là ngành học đào tạo các cán bộ kỹ thuật trình độ đại học có lập trường chính trị và tư tưởng vững vàng. Họ là những người có kiến thức và kỹ năng về lâm nghiệp; có thái độ lao động và đạo đức nghề nghiệp nghiêm túc; có sức khỏe tốt; có khả năng thích ứng với đa dạng các loại công việc ở các cơ quan khoa học, quản lý sản xuất, doanh nghiệp,… Ngành học này trang bị cho sinh viên kiến thức chuyên ngành về hệ sinh thái, lâm sinh, công việc trồng rừng, điều tra, bảo vệ và quản lý tài nguyên rừng; quy hoạch và quản lý sử dụng đất lâm nghiệp. Sinh viên tốt nghiệp có khả năng thực hiện nghiên cứu về các lĩnh vực nông nghiệp, áp dụng và khai thác kỹ thuật khai thác và tài nguyên rừng; đề xuất, lựa chọn các giải pháp công nghệ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm từ rừng; tham gia tập huấn chuyển giao kỹ thuật công nghệ lâm nghiệp. Các khối thi vào ngành Lâm học là gì? Lâm học có mã ngành 7620201. Để học ngành này bạn có thể lựa chọn thi các khối thi sau A00 Toán học – Vật Lý – Hóa học A01 Toán học – Vật Lý – Tiếng Anh A02 Toán học – Vật Lý – Sinh học A16 Toán học – Ngữ Văn – Khoa học tự nhiên B00 Toán học – Hóa học – Sinh học B03 Toán học – Sinh học – Ngữ Văn D01 Toán học – Ngữ văn – Tiếng Anh D08 Toán học – Sinh học – Tiếng Anh Điểm chuẩn ngành Lâm học là bao nhiêu? Tùy vào tiêu chí tuyển sinh, điều kiện xét tuyển mà mỗi trường sẽ có những mức điểm chuẩn khác nhau. Theo số liệu thống kê thì trong năm 2020 ngành Lâm học có điểm chuẩn dao động từ 14 – 16 điểm. Trường Đại học Nông lâm – Đại học Huế có điểm chuẩn là 18 điểm, áp dụng với hình thức xét học bạ. Những trường nào đào tạo ngành Lâm học? Dưới đây là danh sách các trường đại học có đào tạo lĩnh vực này trên khắp cả nước Khu vực miền Bắc Đại học Lâm nghiệp Đại học Thành Tây Khu vực miền Trung Đại học Hồng Đức Đại học Kinh tế Nghệ An Đại học Nông lâm – Đại học Huế Phân hiệu Đại học Nông lâm TP. HCM tại Gia Lai Đại học Quảng Bình Khu vực miền Nam Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh Liệu bạn có phù hợp với ngành Lâm học? Ngành Lâm học là ngành khá gần gũi và quen thuộc với người dân Việt Nam. Để thành công trong lĩnh vực này bạn không chỉ học tốt các môn trong khối thi mà còn phải có những tố chất sau Học tốt các môn học tự nhiên. Bên cạnh đó cần học cách tư duy logic để đạt hiệu quả cao trong công việc. Có tình yêu với công việc. Khi học bất cứ một ngành nghề nào cũng cần có sự tâm huyết, yêu thích nghề đó. Nếu không có tình yêu vào nghề vào công việc thì chắc chắn bạn không thể thành công. Thích thú với công việc nghiên cứu, luôn muốn tìm tòi và khám phá về các loài thực vật. Có một sức khỏe tốt. Bởi nhiều khi chúng ta phải đi khảo sát thực tế ở ngoài trời. Vì thế yếu tố sức khỏe là cần thiết để hoàn thành tốt công việc của mình. Có khả năng ghi nhớ tốt để có thể nhớ tên phân loại các loại động thực vật. Thích các chương trình truyền thông, thông tin về thế giới tự nhiên. Yêu thích cây trồng và vật nuôi. Cơ hội việc làm của ngành Lâm học như thế nào? Sinh viên sau khi ra trường sẽ làm gì? Sinh viên sau khi ra trường sẽ có đủ năng lực và chuyên môn thực hiện các công việc sau Kiểm kê diện tích rừng Vẽ bản đồ rừng Đánh giá thực trạng và đưa ra hướng giải quyết cho rừng Quy hoạch rừng thực hiện các công việc thu hoạch, vận chuyển gỗ tươi, trồng cây gây rừng, phát quang cây rừng, tỉa cành Quy hoạch khu vui chơi và cảnh quan Tích hợp quản lý rừng Đánh giá hiện trạng các lô đất rừng Bảo vệ rừng chống lại côn trùng có hại, bệnh cây và hỏa hoạn Chụp ảnh bản đồ rừng Tư vấn việc lựa chọn và sử dụng máy móc lâm nghiệp Tham gia công tác giảng dạy về ngành lâm học Với những công việc này bạn có thể xin vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị sau Làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, tổng Cục lâm nghiệp, Chi cục kiểm lâm, Chi cục lâm nghiệp, Trung tâm Khuyến nông – khuyến lâm quốc gia… Các doanh nghiệp lâm nghiệp, sản xuất và chế biến sản phẩm lâm nghiệp, trung tâm chuyển giao kỹ thuật lâm nghiệp. Các viện nghiên cứu Viện nghiên cứu lâm nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc… Cơ sở giáo dục đào tạo Đại học, Cao đẳng, Trung học, dạy nghề… Các tổ chức xã hội và tổ chức phi chính phủ, quốc tế. Các cơ sở khác liên quan đến chuyên ngành đào tạo lâm nghiệp. Mức lương dành cho người học ngành Lâm học là bao nhiêu? Các cán bộ giáo viên và sinh viên đi thực tập ngoài trời Ngành lâm nghiệp có mức lương khá cạnh tranh. Tùy thuộc vị trí và địa điểm làm việc mà sẽ có những mức lương khác nhau. Theo số liệu thống kê, mức lương trung bình dao động từ 5 – 10 triệu đồng mỗi tháng. Với những người có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao thì mức thu nhập không chỉ dừng lại ở con số này. Kết luận Trong bài viết trên, đã chia sẻ đến bạn những thông tin tổng quan về ngành Lâm học. Hy vọng, với những thông tin này giúp bạn hiểu thêm được ngành lâm học là học gì? Điểm chuẩn và các trường đại học như thế nào? Từ đó sẽ có những lựa chọn đúng cho nghề nghiệp tương lai của bạn. Chúc bạn có kỳ thi thành công. Đăng nhập
TN&MT - Bộ TN&MT đang triển khai thực hiện Đề án Tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh. Đất khu vực này hiện do các Công ty nông, lâm nghiệp không thuộc diện sắp xếp lại theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP, Ban Quản lý rừng và các tổ chức sự nghiệp khác, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng. Các nông, lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế Nhà nước được hình thành và phát triển trên 60 năm, được Nhà nước giao đất để quản lý và sử dụng diện tích đất rừng khá lớn vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp. Trải qua quá trình hoạt động, các nông, lâm trường quốc doanh này đã có nhiều đóng góp cho việc phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn. Các nông, lâm trường quốc doanh đã có nhiều đóng góp cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Ảnh MH Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc phát huy hiệu quả sử dụng đất đai, rừng và các nguồn lực sẵn có để làm tốt hơn vai trò đối với phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của các nông, lâm trường, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh. Nhờ đó, việc quản lý, sử dụng đất đai đã có những chuyển biến tích cực; nhiều nông, lâm trường đã bước đầu làm rõ hiện trạng quản lý, sử dụng đất đai; đã lập phương án quy hoạch sử dụng đất gắn với phương án sản xuất kinh doanh, quy hoạch 3 loại rừng và bàn giao một phần đất về cho địa phương giao cho các tổ chức, hộ gia đình - cá nhân sử dụng, góp phần giải quyết đất ở, đất sản xuất cho người dân; một số ít công ty nông, lâm nghiệp, tổ chức khác thực hiện giao khoán đất có hiệu quả. Bên cạnh đó, các nông, lâm trường đã thực hiện việc rà soát, sắp xếp lại trên sổ sách và bản đồ, làm rõ thêm một bước về đất đai, tài sản trên đất; xác định được diện tích cần thiết giữ lại được giao đất, diện tích phải chuyển sang thuê, diện tích bàn giao về địa phương; tổ chức sử dụng đất có hiệu quả hơn, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Một số doanh nghiệp đã đổi mới cơ chế quản lý, quản trị doanh nghiệp; tạo quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như Việc chuyển đổi ở nhiều doanh nghiệp thực chất mới thực hiện được việc đổi tên, chưa có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản lý và quản trị doanh nghiệp; phần lớn đất đai và rừng chưa được rà soát, đo đạc trên thực địa, chưa lập bản đồ địa chính, diện tích đất được cấp Giấy chứng nhận chiếm tỷ lệ thấp, chưa tạo được sự chuyển biến căn bản trong quản lý, sử dụng đất đai và rừng; hệ thống hồ sơ kỹ thuật và pháp lý sử dụng để quản lý đất còn thiếu chính xác, không phản ánh đúng thực tế, tạo kẽ hở cho việc vi phạm pháp luật và gây khó khăn, phức tạp cho việc quản lý đất đai. Đặc biệt, diện tích đất quản lý, sử dụng giữa thực tế và hồ sơ sổ sách còn sai khác lớn, có nhiều diện tích chưa quản lý được. Phần diện tích đất bàn giao cho địa phương phần nhiều chỉ thực hiện trên sổ sách, chưa xác định được trên thực địa, chưa có hồ sơ địa chính để quản lý, sử dụng..., thực tế còn nhiều diện tích không quản lý được do buông lỏng quản lý đất qua nhiều thời kỳ; phần diện tích đã giao khoán theo chính sách trước đây do không thiết lập hồ sơ hoặc có thiết lập hồ sơ nhưng không chặt chẽ nên việc truy nguồn gốc đất giữa giao khoán với cho thuê, cho mượn, lấn chiếm, chồng lấn, tranh chấp… gặp rất nhiều khó khăn phức tạp. Tình trạng tranh chấp, vi phạm pháp luật về đất đai còn phức tạp như bị lấn chiếm; cho thuê, cho mượn trái phép, chuyển nhượng trái phép; giao khoán không đúng đối tượng; để hoang hóa…; còn xảy ra việc sử dụng đất đai lãng phí, kém hiệu quả, bị bỏ hoang; còn có biểu hiện vi phạm pháp luật đất đai với nhiều hình thức khác nhau chưa được xử lý dứt điểm. Ngoài ra, còn hiện tượng lợi dụng kẽ hở do chưa có hoặc có nhưng chưa đầy đủ, chưa tin cậy, không chính xác hồ sơ kỹ thuật và pháp lý, kẽ hở do ranh giới nhiệm vụ quản lý, ranh giới loại rừng giữa rừng sản xuất với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ không rõ ràng… để hợp thức hóa cho một số vi phạm đất đai trong quá trình rà soát sắp xếp... từ đó làm giảm hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường. Để khắc phục những tồn tại nêu trên, ngày 7/1/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý đối với đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh hiện do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp không thuộc diện sắp xếp lại theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP, Ban Quản lý rừng và các tổ chức sự nghiệp khác, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Trong đó, giao nhiệm vụ cụ thể cho các địa phương và các Bộ, ngành thực hiện. Do đó, để thực hiện các nhiệm vụ của Đề án ở Trung ương theo phân công của Thủ tướng, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và Dự án Tăng cường quản lý đối với đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh hiện do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp không thuộc diện sắp xếp lại theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP, Ban Quản lý rừng và các tổ chức sự nghiệp khác, hộ gia đình, cá nhân sử dụng Phần nhiệm vụ do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện làm cơ sở triển khai các nhiệm vụ được giao. Được biết, hiện nay Tổng cục Quản lý đất đai đã giao các đơn vị trực thuộc khẩn trương lập nội dung và dự toán chi tiết hạng mục các công việc để sớm triển khai thực hiện Đề án trong thời gian tới.
ĐÃ ĐẾN LÚC CẦN CUỘC CÁCH MẠNG’ QUYẾT LIỆT HƠN Lời giới thiệu Đất đai là tài nguyên quý giá, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được của nông/lâm nghiệp và là trụ đỡ quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì thế, mục tiêu mà Bộ Chính trị, Chính phủ và Quốc hội đã liên tiếp đặt ra từ năm 1991 đến nay là cần tháo gỡ các vướng mắc từ cơ chế chính sách cũng như bất cập từ thực tiễn quản lý ở cơ sở để “giải phóng” nguồn lực đất đai, nhất là đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường cho phát triển kinh tế. Đây cũng là giải pháp để đảm bảo an sinh xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cũng như đạt được mục tiêu phát triển thịnh vượng, không để ai bị bỏ lại phía sau. Không thể phủ nhận, sau gần 30 năm “sắp xếp, đổi mới,” đến nay việc quản lý, sử dụng đất đai của các nông, lâm trường trên cả nước đã có bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập gây thất thoát, lãng phí nguồn lực đất đai; thậm chí nhiều công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng còn buông lỏng quản lý để mất rừng với hơn một nửa diện tích được giao trước đó. Trong khi đó, nhiều địa phương thi hành các “mệnh lệnh” về quản lý, sử dụng đất nông lâm trường còn mang tính trên giấy; nhiều nơi vẫn chưa hoàn thành việc xác định ranh giới, cắm mốc thực địa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hệ quả của thực trạng trên là cả nước hiện có khoảng hộ dân đang thiếu đất ở, hơn hộ dân tại các vùng “lõi nghèo của cả nước” đang thiếu đất sản xuất. Để có cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng trên, mời độc giả cùng phóng viên Báo điện tử VietnamPlus đi vào thực tế điều tra – từ đó hiểu vì sao Nhà nước đã ban hành rất nhiều “quyết sách lớn” đốc thúc các địa phương triển khai đổi mới nhưng rừng vẫn bị mất; đất đai liên tiếp bị lấn chiếm, tranh chấp; tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thiếu đất sản xuất ở mức cao. Trên cơ sở thông tin đã ghi nhận, Báo Điện tử VietnamPlus đăng tải loạt bài “Giải phóng đất nông lâm trường Cần cuộc cách mạng’ quyết liệt hơn” như một hồi chuông cảnh tỉnh, lời kiến nghị, thúc giục các cơ quan chức năng liên quan, các nhà hoạch định chính sách lưu ý, sớm triển khai các giải pháp và nhiệm vụ cụ thể hơn, để không gây lãng phí nguồn lực đất đai cũng như giải quyết được hiệu quả vấn đề thiếu đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên cả nước. GIẢI PHÓNG ĐẤT NÔNG LÂM TRƯỜNG 30 NĂM MỚI ĐỔI MỚI’ PHẦN NGỌN Việc sắp xếp, đổi mới và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất nông lâm trường là nhiệm vụ quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau. Ảnh Hùng Võ/Vietnam+ Trước bối cảnh các nông lâm trường quốc doanh đang bộc lộ nhiều yếu kém do được giao quá nhiều diện tích rừng và đất nhưng “đuối sức” trong quản lý, sử dụng không hiệu quả, bắt đầu từ năm 1991, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về sắp xếp, đổi mới và phát triển nông lâm trường. Đến nay, việc triển khai các “quyết sách” liên quan đến đời sống của hàng vạn người dân đã bước vào năm thứ 30. Không thể phủ nhận, sau gần 3 thập kỷ điều chỉnh, các nông lâm trường đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, những đổi thay ấy vẫn chỉ là “bình mới, rượu cũ”. Đầu tháng 10/2020, phóng viên VietnamPlus nhận được thông tin từ một số chuyên gia, tổ chức nghiên cứu rằng hiện nay tình trạng quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông lâm trường đang rất phức tạp. Nhiều công ty lâm nghiệp “ôm” quá nhiều đất – dù đã “sắp xếp đổi mới,” nhưng tình hình sản xuất vẫn không hiệu quả; trong khi đồng bào dân tộc thiểu số tại các “vùng lõi nghèo của cả nước” vẫn thiếu đất sản xuất, đặc biệt là tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Một trong những lý do dẫn tới thực trạng trên là việc triển khai sắp xếp đổi mới nông lâm trường quốc doanh vẫn còn mang nặng tính hình thức. Nghĩa là các nông, lâm trường mới chỉ tập trung vào “phần ngọn” là sắp xếp tổ chức đổi tên gọi từ nông lâm trường quốc doanh thành ban quản lý hoặc công ty nông, lâm nghiệp. Trong khi đó, “phần gốc rễ” của việc đổi mới là rà soát, đánh giá hiệu quả sử dụng đất còn ít được quan tâm; chưa có sự thay đổi căn bản về phương thức hoạt động, cơ chế quản lý và điều hành dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh rất thấp. Nhiều công ty lâm nghiệp “ôm” quá nhiều đất, trong khi đồng bào dân tộc thiểu số tại các “vùng lõi nghèo của cả nước” vẫn thiếu đất sản xuất Đáng nói hơn là phần lớn các địa phương không chủ động xây dựng phương án đổi mới mà để cho các nông, lâm trường “tự rà soát, tự đánh giá” và chưa có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan, nhất là sự tham gia của người dân địa phương. Mặt khác, các nông lâm trường vẫn quản lý, sử dụng gần như toàn bộ diện tích được giao, chỉ có những khu vực nào thực sự bị tranh chấp, bị lấn chiếm – mới trả lại. Thế nhưng, phần lớn diện tích đất trả lại cũng không còn quản lý được nữa vì thực chất dân đã sản xuất kinh doanh, sử dụng từ lâu đời. Hệ quả của việc “thay bình chưa thay rượu” trên là sau gần 30 năm đổi mới, từ 663 nông lâm trường quốc doanh một số nông lâm trường hoạt động thua lỗ đã giải thể được sắp xếp lại còn 252 công ty nông, lâm nghiệp song tình trạng tranh chấp, mua bán, chuyển nhượng đất đai vẫn xảy ra. Thậm chí, một số công ty còn để mất đất, mất rừng với hơn một nửa diện tích từng được Nhà nước giao quản lý trước đó… Hiện có khoảng hộ dân đang thiếu đất ở, hơn hộ dân tại các vùng “lõi nghèo của cả nước” đang thiếu đất sản xuất. Ảnh Hùng Võ/Vietnam+ Trong chuyến đi thực tế tại các tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, chúng tôi đã thực sự đau xót khi tận mắt chứng kiến cảnh hàng chục quả đồi từng được Nhà nước giao cho các ban quản lý rừng, công ty lâm nghiệp quản lý – nay cây cối bị chặt hạ, đốt cháy, bỏ hoang, chẳng khác gì những “cánh rừng chết.” Chỉ riêng trên quãng đường từ tỉnh Kon Tum qua tỉnh Đắk Lắk, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến trên dưới 20 lần cảnh những vạt rừng bị thiêu rụi. Tiếng máy cưa xăng “thở dốc” khi đốn hạ cây cối vang khắp núi rừng. Hàng trăm ngôi nhà, kho xưởng và cả trụ sở xã được xây dựng trên đất nông, lâm trường… Tất cả những cảnh tượng đó đã góp phần tạo nên “bức tranh màu xám,” một thực tế không thể phủ nhận, đó là rừng Tây Nguyên đã và đang bị mất, bị xâm lấn do việc giám sát, quản lý yếu kém việc chuyển đối đất nông lâm trường. Theo dữ liệu phóng viên thu thập được, trong vòng 10 năm giai đoạn từ 2010-2020, diện tích rừng trên cả nước đã bị mất khoảng hơn nửa triệu hécta. Riêng năm 2019, diện tích rừng bị thiệt hại là hécta. Trong 8 tháng năm 2020, diện tích rừng bị thiệt hại hécta; trong đó thiệt hại do cháy là hécta. Tại khu vực Tây Nguyên, trong giai đoạn này, rừng đã bị mất khoảng 0,314 triệu hécta; tốc độ mất rừng tự nhiên bình quân vào khoảng hécta/năm. Về việc chuyển mục đích sử dụng rừng, vùng Tây Nguyên có hơn 750 dự án đề nghị chuyển mục đích sử dụng với diện tích rừng và đất lâm nghiệp chiếm Kết quả phân tích biến động sử dụng đất lâm nghiệp cho thấy trong giai đoạn 2014-2017, có tới 13% diện tích rừng bị mất đã được chuyển sang sản xuất nông nghiệp như càphê, sắn, tiêu hoặc cây sản xuất hàng năm. Tuy nhiên, nhiều diện tích trong số đó trong quá trình sản xuất đã không mang lại hiệu quả. Đơn cử như tại xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, trước đây, đất của các hộ dân sinh sống ở xã này thuộc quản lý của lâm trường Ea Tul sau chuyển thành ban quản lý rừng phòng hộ Buôn Đôn, nhưng người dân xâm canh, lấn chiếm và chuyển mục đích sử dụng thành đất ở. Ngay cả diện tích đất canh tác cũng thuộc về ban quản lý rừng phòng hộ, nhưng do người dân bản địa xâm chiếm, sau bán lại cho các hộ gia đình người Kinh và chuyển quyền sử dụng sang chính chủ. Theo người dân xã Ea Wer, đất rừng giao cho ban quản lý rừng phòng hộ quản lý và sử dụng không hiệu quả, hay nói cách khác “ban quản lý còn đất chứ không còn rừng”… Tiến sĩ Trương Thị Hạnh, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, cho biết từ khi sắp xếp, đổi mới đến nay, trên địa bàn Đắk Lắk có 13 công ty lâm nghiệp đang quản lý khoảng Tuy nhiên, theo Báo cáo số 24/BC-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh này về “thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai tại các nông trường, lâm trường quốc doanh giai đoạn từ năm 2004-2014,” trong số 13 công ty lâm nghiệp trên chỉ có 1 đơn vị sản xuất duy nhất có mức lãi 4,9% sau thuế, 8 công ty chỉ đạt mức lãi thấp dưới 0,1% và 4 đơn vị thua lỗ. Bên cạnh việc sử dụng đất kém hiệu quả, nhiều công ty lâm nghiệp còn sử dụng đất sai mục đích, bỏ hoang đất, rừng cũng như để xảy ra lấn chiếm, tranh chấp đất. Theo kết quả kiểm tra, rà soát, đánh giá các dự án phát triển nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, năm 2017 đã có hơn đất sử dụng sai mục đích; trên đất chưa sử dụng; hơn diện tích đất xảy ra tranh chấp… Tại khu vực Tây Nguyên, trong giai đoạn 2010-2019, rừng đã bị mất khoảng 0,314 triệu hécta; tốc độ mất rừng tự nhiên bình quân vào khoảng hécta/năm Trả lời câu hỏi của phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus về nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Lắk khẳng định có rất nhiều lý do dẫn tới việc phá rừng, lấn chiếm, tranh chấp đất nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu nhất là do tình trạng đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc di cư tự do đến địa phương vẫn tiếp tục diễn ra, chưa được kiểm soát. Bên cạnh đó, các chủ rừng còn buông lỏng quản lý rừng và đất lâm nghiệp; đặc biệt là một số trường hợp làm ngơ, tiếp tay cho một số đối tượng lấn chiếm, mua bán đất rừng, trục lợi trái phép,… dẫn tới nhiều diện tích đất bị lấn chiếm trong thời gian dài. Tại Kon Tum – tỉnh có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn nhất so với các tỉnh còn lại ở khu vực Tây Nguyên, sau khi thực hiện sắp xếp, đổi mới các nông lâm trường, hiện nay trên toàn tỉnh còn 7 công ty trách nhiệm nhiệm hữu hạn một thành viên lâm nghiệp quản lý gần rừng và đất rừng chiếm 37,4 diện tích đất lâm nghiệp toàn tỉnh do Ủy ban Nhân dân tỉnh quản lý. Nhưng sau khi rà soát, diện tích còn lại hiện nay là bị hụt so với trước gần Chỉ riêng trên quãng đường từ tỉnh Kon Tum qua tỉnh Đắk Lắk, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến trên dưới 20 lần cảnh những vạt rừng bị thiêu rụi. Ảnh Hùng Võ/Vietnam+ Toàn tỉnh Kon Tum có hơn đất lâm nghiệp đã bị người dân lấn chiếm để làm nương rẫy, thậm chí Ủy ban Nhân dân các huyện cũng “giao nhầm đất” cho người dân “chồng” lên diện tích của các lâm trường. Một trong những hạn chế lớn nhất là việc hồ sơ kỹ thuật, số liệu diện tích đất giữ lại và trả về địa phương còn có sự chênh lệch nhau do số liệu chủ yếu dựa vào sổ sách mà chưa thực hiện công tác chi tiết như đo đạc, kiểm kê đất đai để xác định ranh giới, cắm mốc thực địa. Chính vì thế, nhiều công ty lâm nghiệp ở các địa phương đã không quản lý được, dẫn đến tình trạng lấn chiếm, tranh chấp… Đối lập với thực trạng các ban quản lý rừng, công ty nông lâm nghiệp được giao quản lý quá nhiều đất nhưng hiệu quả thấp, gây lãng phí nguồn lực đất đai…, trong vòng 30 năm qua, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi – nơi đang là “vùng lõi nghèo của cả nước” vẫn đang gặp khó khăn do không có hoặc thiếu đất sản xuất. Trong câu chuyện với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, anh Hoàng Văn Quân 38 tuổi, dân tộc Dao ở bản Qoa, xã Tân Dương, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai cho biết là người dân tộc thiểu số sinh ra và gắn bó với núi rừng – bao năm qua, gia đình nhỏ với 5 nhân khẩu của anh chỉ biết trông cậy vào “nồi cơm” duy nhất là 1 sào ruộng và 1 hécta đất rừng do ông bà khai hoang canh tác từ lâu đời để lại. Thiếu đất sản xuất, đói nghèo, gần năm nay, tôi đã phải đi khắp nơi làm thuê làm mướn để 3 đứa con không phải bỏ học giữa chừng. Thiếu đất sản xuất vất vả lắm! Anh Hoàng Văn Quân 38 tuổi, dân tộc Dao ở bản Qoa, xã Tân Dương, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai “Với nguồn tư liệu đất đai ít ỏi trên, hàng ngày, hai vợ chồng tôi cần mẫn bán mặt cho đất, bán lưng cho trời cày cuốc để trang trải cuộc sống. Cứ tưởng cố gắng rồi trời thương, ai ngờ – năm ngoái, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai lại có quyết định thu hồi 1 hécta đất nằm xen kẽ trong rừng phòng hộ bấy lâu nay gia đình đang sử dụng nhưng không có sổ đỏ, để triển khai dự án trạm nghiên cứu thực nghiệm mây tre. Vậy là, nồi cơm bể đôi.’ Thiếu đất sản xuất, đói nghèo, gần năm nay, tôi đã phải đi khắp nơi làm thuê làm mướn để 3 đứa con không phải bỏ học giữa chừng. Thiếu đất sản xuất vất vả lắm anh ạ!” anh Quân rưng rưng chia sẻ. Không chỉ riêng hộ gia đình anh Quân, hiện nay trên địa bàn xã Tân Dương còn khoảng hơn 100 hộ cũng đang thiếu đất sản xuất. Phần lớn đồng bào đã và đang thiếu đất đều rất khó khăn, phải đi làm thuê làm mướn để trang trải cuộc sống. Theo số liệu điều tra thực trạng kinh tế-xã hội đối với 53 dân tộc thiểu số, hiện nay cả nước có đến 68,5% hộ dân tộc thiểu số có nhu cầu cần thêm đất để sản xuất; trong đó nhiều nhóm dân tộc ở Tây Nguyên có trên 80% số hộ thiếu đất sản xuất. Nhiều công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng còn buông lỏng quản lý để mất rừng với hơn một nửa diện tích được giao trước đó. Ảnh Hùng Võ/Vietnam+ Đáng chú ý, mặc dù thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về giải quyết đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số giúp hàng trăm ngàn hộ thoát nghèo, song theo báo cáo tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc Hội mới đây về thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 đẩy mạnh giảm nghèo bền vững đến năm 2020, nước ta vẫn còn hộ dân thiếu đất ở và hộ thiếu đất sản xuất. Những con số này cho thấy vấn đề đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều vướng mắc cần được quan tâm nghiêm túc và có giải pháp triệt để hơn. Thực tế trên cũng đã được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà thẳng thắn chỉ ra rằng việc “giải phóng” nguồn lực đất đai mới chỉ làm được một phần và vẫn còn những xung đột, nhiều thủ tục là rào cản trong tiếp cận đất đai… Đơn cử như vùng Tây Nguyên, theo ông Nguyễn Văn Tiến, Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ban Kinh tế Trung ương, dân số của toàn vùng này có hơn nghìn người với 47 dân tộc sinh sống, trong đó có khoảng 37 dân tộc ít người. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều tại khu vực này khá cao, chiếm 13,8%; cao hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước là 8,4%. Vì thế, để đảm bảo đời sống của người dân, các tỉnh Tây Nguyên đã xây dựng một số mô hình sản xuất nông lâm kết hợp trên đất lâm nghiệp để nâng cao thu nhập, đời sống, ổn định sản xuất cho người dân. Tuy nhiên, đất sản xuất nông nghiệp trên đất lâm nghiệp không được cấp sổ đỏ, không được hướng dẫn kỹ thuật canh tác, không được vay vốn đầu tư… dẫn đến tình trạng người dân thiếu ăn, vay nặng lãi, đến khi thu hoạch phải trả lãi khá cao. Có trường hợp do mất mùa, không có tiền trả nợ, một số hộ gia đình đã phải trả nợ bằng nhà, bằng rẫy đang canh tác. Thực tế trên đã tạo áp lực đến sinh kế của người dân. Đơn cử như tại huyện Ea Súp Đắk Lắk, hộ nghèo chiếm 39%; huyện Đắk Glong Đắk Nông 40,9%… Nêu con số tổng quan hơn, ông Triệu Văn Bình, Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội cho biết Tây Nguyên hiện có 180 công ty nông, lâm nghiệp và ban quản lý rừng đang quản lý trên 2,6 triệu hécta. Nguồn gốc đất của các công ty này quản lý còn nhiều bất cập, hạn chế nhưng chậm được khắc phục, dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Hệ quả là khu vực Tây Nguyên hiện còn có khoảng hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, hộ dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất. “Ngoài ra, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số đang thiếu đất sản xuất, không có việc làm, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, dẫn đến người dân tự phát chặt phá, đốt rừng lấy đất làm nương rẫy,” ông Bình nhấn mạnh. Nhiều công ty lâm nghiệp ở các địa phương không quản lý được rừng đã để xảy ra tình trạng lấn chiếm, tranh chấp. Ảnh Hùng Võ/Vietnam+ Tiến sĩ Trương Thị Hạnh, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên cũng cho rằng một số công ty lâm nghiệp sau sắp xếp, đổi mới vẫn chưa đóng góp được nhiều cho sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Thậm chí có công ty còn khoán trắng, lợi dụng đất của nhà nước giao để “phát canh thu tô;” không hoặc ít đầu tư làm dịch vụ nông nghiệp cũng không thay đổi định mức khoán; vườn cây giao khoán đã hết khấu hao nhưng các công ty vẫn tiếp tục thu sản phẩm nên người dân chống đối, đòi công ty trả đất về địa phương để địa phương giao cho người dân. Trong khi đó, cơ chế chính sách, pháp luật trong công tác quản lý sử dụng đất đai, sử dụng rừng, quản lý dân cư còn nhiều bất cập, chồng chéo. Các chính sách và nguồn lực đầu tư để tạo động lực thúc cho các lực lượng tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng còn hạn chế, cơ chế chính sách còn bất cập. Bài 2 Phát canh thu tô’ Mô hình liên kết tư lợi’ trên lưng dân nghèo
lâm trường là gì